Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013

Vận dụng quan điểm giao tiếp để phân tích, đánh giá, đề ra kiến nghị dạy chùm bài tiếng Việt

Thành Được - K18

A.    LỜI NÓI ĐẦU
            Từ lâu, theo truyền thống, việc dạy và học nói chung và dạy tiếng Việt nói riêng được hiểu là quá trình người thầy truyền đạt kiến thức còn học sinh là người lãnh hội những kiến thức ấy. Bên cạnh những ưu điểm thì cách dạy và học  ấy sẽ làm cho người học thụ động trong việc lãnh hội kiến thức.
Hiện nạy với quan điểm giáo dục là “lấy HS làm trung tâm” thì việc dạy và học có sự thay đổi. Ở quan điểm này, người thầy không mất đi vị trí của mình mà chuyển sang một vị trí mới – vị trí hướng dẫn, nếu trước kia người thầy là người truyền thụ tất tả thì ở đây người thầy như người “cầm lái” để hướng “con thuyền” HS của mình đến “bờ bến kiến thức”, còn học sinh ở đây sẽ là người khám phá, tìm ra kiến thức mới với sự hướng dẫn của GV.
Dạy tiếng không chỉ là dạy cho HS những quy tắc, cấu trúc,… của tiếng Việt mà còn phải dạy các em sử dụng tốt tiếng Việt trong giao tiếp. Đáp ứng yêu cầu đó là quan điểm dạy học bằng quan điểm giao tiếp. Bằng việc cho người học tự tìm đến kiến thức qua việc tìm tòi, thảo luận, trình bày ý kiến của mình trước tập thể sẽ hình thành cho các em kĩ năng nghe, nói đọc, viết và năng lực giao tiếp.
Bằng những kiến thức cơ bản về lí thuyết giao tiếp, quân điểm dạy học tiếng việt  bằng quan điểm giao tiếp. Đặc biệt là những nhận xét đánh giá và chùm bài phong cách ngôn ngữ trình bày ở SGK và những kiến nghị và cách dạy chùm bài phong cách, tôi mong có thể giúp GV và HS có thể dễ dàng tiến hành việc truyền đạt và lĩnh hội kiến thức về chùm bài phong cách cũng như việc hình thành ở HS việc chủ động tìm hiểu kiến thức thông qua thảo luận, thuyết trình để từ đó các em có thể mạnh dạng đưa ra ý kiến trong học tập. Bài viết này, do người viết vận dụng những hiểu biết của môn học cũng như những kinh nghiệm giảng dạy của nản thân, trong thời gian ngắn khó có thể tìm hiểu thấu đáo cặn kẻ từng vấn đề, mong có sự góp ý của thầy cùng các bạn để bài viết có thể hoàn thiện hơn.

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
VÀI NÉT  VỀ LÍ THUYẾT GIAO TIẾP
VÀ QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT

1.1. Lí  thuyết giao tiếp
1.1.1. Giao tiếp là gì?
Như chúng ta đã biết, “giao tiếp là sự tiếp xúc, giao lưu giữa người và người trong xã hội, qua đó con người bộc lộ và truyền đạt cho nhau những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, thái độ đối với nhau và đối với điều được truyền đạt”[2,tr7]. Phương tiện chủ yếu của hoạt động giao tiếp đó là ngôn ngữ (ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết).
1.1.2. Hai quá trình của giao tiếp
Giao tiếp diễn ra bởi hai quá trình:
- Quá trình tạo lập văn bản nơi người nói (còn gọi là quá trình phát tin hay kí mã).
            - Quá trình lĩnh hội văn bản nơi người nghe (còn gọi là quá trình giải mã).
1.1.3. Các nhân tố giao tiếp
Hoạt động giao tiếp nhất định xảy ra đòi hỏi phải có những nhân tố giao tiếp:
- Nhân vật giao tiếp: người tham gia vào quá trình giao tiếp, họ có mặt và luân phiên nhau trong vai trò người nói và người nghe. Đặc điểm và cá tính, nghề nghiệp, vốn sống, trình độ văn hóa,… luôn chi phối đến ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp.
- Hoàn cảnh giao tiếp: là môi trường diễn ra hoạt động giao tiếp. Nó có thể là hoàn cảnh không gian thời gian diễn ra hoạt động giao tiếp, nó có thể là hoàn cảnh văn hóa lịch sử mà các nhân vật giao tiếp tồn tại và diễn ra hoạt động giao tiếp.
- Nội dung giao tiếp: điều được đề cập đến trong giao tiếp. Nó bao gồm phạm vi khái quát, bao trùm và những nội quy cụ thể.
- Mục đích giao tiếp: là đích đến của hoạt động giao tiếp. Không có cuộc giao tiếp nào là không có mục đích, hay nói cách khác dù muốn hay không thì mỗi cuộc giao tiếp đều có mục đích nhất định.
Từ những nhân tố trên, ta có thể thấy rằng bốn nhân tố trên thỏa mãn điều kiện trả lời các câu hỏi: Nhân vật giao tiếp trả lời câu hỏi: ai nói (viết)? nói (viết) với ai? Hoàn cảnh giao tiếp trả lời câu hỏi: nói (viết) trong hoàn cảnh nào? Nội dung giao tiếp trả lời câu hỏi: nói (viết) cái gì hoặc nói viết về cái gì? Mục đích giao tiếp trả lời câu hỏi: nói (viết) để làm gì? Hoặc nhằm mục đích gì?
1.2. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt
1.2.1. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt là gì?
a. Dạy và học tiếng Việt là dạy gì, học gì?
Đối tượng của tiếng Việt là việc dạy và hoc; hoạt động của thầy; hoạt động của học sinh. Vậy dạy và học tiếng Việt là dạy cái gì và học cái gì?
Dạy tiếng Việt là quá trình cung cấp cho học sinh tri thức về ngôn ngữ, hệ thống tiếng Việt, các quy tắc sử dụng tiếng Việt các dạng lời nói và kĩ năng sử dụng tiếng Việt vào hoạt động giao tiếp” [1, tr35].
Dạy và học như thế nào? Đó chính là phương thức hoạt động của thầy cô giáo và học sinh. Nó bao gồm việc soạn thảo các phương pháp, thủ pháp, hình thức và phương tiện dạy và học tiếng Việt.
Tại sao lại dạy và học như thế? Điều này phải căn cứ vào sự nghiên cứu và am hiểu tiếng Việt một cách sâu sắc của các nhà nghiên cứu và sự cần thiết của tiếng Việt cũng như  khả năng am hiểu tiếng Việt của  học sinh.
b. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt là gì?
Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt là dạy học trong hoạt động giao tiếp, bằng giao tiếp nhằm hình thành và củng cố và nâng cao năng lực giao tiếp cho người học. Cụ thể, ở học sinh phổ thông dạy theo quan điểm giao tiếp là dạy cho các em kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết ngoài ra còn hình thành khả năng ứng xử trong giao tiếp. Bởi tiếng Việt ngoài nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những tri thức ngôn ngữ học, hệ thống tiếng Việt những quy tắc hoạt đông và những sản phẩm của nó trong hoạt động giao tiếp thì mặc khác tiếng Việt là công cụ giao tiếp và tư duy nên nó còn chức năng trang bị cho học sinh công cụ giao tiếp.
Khi nói đến giao tiếp là nói đến hệ thống từ ngữ. Mà từ vốn là đơn vị sẵn có trong hệ thống ngôn ngữ, mỗi con người từ khi sinh ra và lớn lên đã tích lũy cho mình vốn từ của xã hội để làm vật liệu cho mình trong hoạt động nhận thức và giao tiếp.
1.2.2. Cơ sở của quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt
Xuất phát từ yêu cầu của xã hội. Chúng ta đều biết, khi sinh ra và lớn lên con người không thể sống riêng lẽ tách biệt mà tồn tại trong mối quan hệ công đồng, và để tồn tại họ phải lao động, chính mối quan hệ này những nhu cầu hằng ngày lao động làm nảy sinh nhu cầu của con người đó là qua trình giao tiếp. Để giao tiếp được đòi hỏi con người phải có phương tiện giao tiếp và đó chính là ngôn ngữ. Chính vì thế mà Mác đã khẳng định “ngôn ngữ chỉ ra đời trong giao tiếp”. Đầu tiên khi chưa có chữ viết, con người giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ nói, tuy nhiên ngôn ngữ nói bị hạn chế là bị giới hạn bởi khoảng cách không gian nên dần dần bằng hệ thống kí hiệu, ám hiệu thì chữ viết ra đời, dù chữ viết có thô sơ nhưng vẫn phần nào đáp ứng được nhu cầu của con người. Từ đó, ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người (dạng nói hoặc viết) nguồn gốc, quá trình hình thành ngôn ngữ của loài người nói chung và hình thành ngôn ngữ của từng cá nhân nói riêng.
Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Ngôn ngữ sẽ được hiện thực hóa trong quá trình giao tiếp, hơn nữa từ có thể biến đổi và chuyển hóa về chức năng và thực hiện các chức năng mới không phải chức năng vốn có của nó trong hệ thống ngôn ngữ.
Ngôn ngữ tồn tại độc lập, không duy truyền vì thế giao tiếp là điều kiện tiên quyết để hình thành ngôn ngữ ở mỗi cá nhân.
Từ những phân tích trên ta có thể thấy rằng xuất phát từ chức năng xã hội của ngôn ngữ, chức năng làm công cụ tư duy và đặc biệt là chức năng là phương tiện để giao tiếp có thể khẳng định chỉ trong giao tiếp thì ngôn ngữ của con người mới có thể hình thành, sinh động, đa dạng và phong phú hơn so với trạng thái ban đầu của nó. Trong quá trình giao tiếp, mỗi cá nhân sẽ tích lũy cho mình vốn ngôn từ riêng và để đạt được hiệu quả cao trong giao tiếp đòi hỏi con người phải nắm vững các quy tắc vận hành của ngôn ngữ, do ngôn ngữ không duy truyền mà chỉ hình thành trong giao tiếp. Nên đó là cơ sở hình thành việc dạy và học tiếng Việt.
1.2.3. Nội dung
 Tiếng Việt bao gồm hai bộ phận. Thứ nhất là bộ phận tri thức về ngôn ngữ học về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Ở học sinh phổ thông chúng ta không đào tạo những nhà ngôn ngữ học nên chỉ cần cung cấp cho các em một số khái niệm và những hiểu biết cơ sở về môn học. Bộ phận thứ hai tiếng Việt được coi như đối tượng cần giảng dạy, nó được hiểu như một hệ thống công cụ hợp thành gồm ngữ âm từ vựng và ngữ pháp, thứ hai nó được coi như một hoạt động, những quy tắc sử dụng điều khiển công cụ đó trong đời sống hằng ngày, cá nhân cũng như xã hội, thứ ba nó được coi là sản phẩm trong hoạt động giao tiếp gồm văn bản, lời thoại nói và viết.

Mặt khác tiếng Việt còn là bộ môn công cụ cho mội bộ môn nên dạy tiếng Việt là dạy cho học sinh sử dụng tốt tiếng Việt với tư cách là công cụ tư duy, nhận thức và giao  tiếp xã hội, nói cách khác là dạy cho học sinh năng lực hoạt động lời nói bằng tiếng Việt. Trên cơ sở này, chúng ta thấy rõ một điều là trong quá trình dạy và học thì giáo viên và học sinh là các nhân vật giao tiếp, có đích đến nhất định, đó là kiến thức hình thành và nâng cao trình độ hiểu biết của học sinh cũng như giáo viên. Chính vì thế, theo quan điểm giao tiếp, chúng ta cần lựa chọn:

T Nội dung tri thức khi truyền đạt cho học sinh:
- Những hiểu biết về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
           - Những quy tắc sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp:
 + Những quy tắc dùng từ
 + Những quy tắc dùng câu
 + Những quy tắc dùng đoạn,…
          - Hình thành và củng cố kĩ năng sử dụng tiếng Việt.
T Kĩ năng giao tiếp:
- Quan điểm về kĩ năng.
- Cơ sở tâm lí của việc hành thành kĩ năng.
- Bài tập – phương tiện hình thành kĩ năng.
Tóm lại nội dung dạy và học tiếng Việt bao gồm lí thuyết và thực hành về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Trong đó, nổi bật hơn cả với tư cách là công cụ giao tiếp và tư duy, nội dung quan trọng của tiếng Việt là rèn luyện kĩ năng hoạt động giao tiếp.
Mục tiêu chính của  việc vận dung quân điểm giao tiếp vào việc dạy tiếng Việt là căn cứ vào trình độ của học sinh, đảm bảo tính khoa học và hệ thống, chuẩn tiếng Việt, các quy luật vận dụng tiếng Việt vào giao tiếp, hình thành hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết làm cho học sinh yêu mến, phát huy và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt “một của cải vô cùng phong phú, lâu đời của dân tộc ta”[1, tr36].
1.2.4. Phương pháp dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp
Xưa nay chúng ta hay nói, khi dạy học đồi hỏi phải có các phương pháp dạy học phù hợp. Vậy phương pháp dạy học là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này, tuy nhiên khái niệm được mọi người tán thành nhiều nhất cho rằng “phương pháp dạy học là cách thức làm việc giữa thầy giáo và  học sinh, nhờ đó mà học sinh nắm vững  được kiến thức, kĩ năng và kĩ xảo hình thành thế giới quan và phát triển năng lực” [1, tr61]. Các phương pháp dạy học tiếng Việt thường được sử dụng như:
Phương pháp thông báo – giải thích: người thầy dùng lời nói của mình để giải thích minh họa những tri thức mới còn học sinh chú ý lắng nghe, suy nghĩ và tiếp nhận những tri thức đó. Đây là phương thức truyền thống, chúng ta không nên quá lạm dụng phương pháp này vì nó dễ biến học sinh trở thành người thụ động khi tiếp nhận kiến thức từ thầy.
Phương pháp phân tích ngôn ngữ: từ việc quan sát phân tích các hiện tượng ngôn ngữ theo các chủ đề nhất định và tìm ra những kí hiệu đặc trưng của hiện tượng ấy. Nó bao gồm: Phân tích – phát hiện, phân tích – chứng minh, phân tích phán đoán, phân tích tổng hợp.
Phương pháp rèn luyên theo mẫu: là phương pháp mà thầy giáo chọn và giới thiệu các mẫu hoạt động ngôn ngữ rồi hướng dẫn học sinh phân tích và nắm vững cơ chế của chúng và bước trước mẫu đó một cách sáng tạo vào lời nói của mình.
Phương pháp giao tiếp: hướng dẫn học sinh vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện nhiệm vụ của quá trình giao tiếp có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia và hoạt động giao tiếp. Phương pháp này được thực hiện theo các bước sau: giáo viên tạo tình huống có vấn đềà kích thích sự tìm tòi, suy nghĩ ở học sinh  học sinh sẽ định hướng để giải quyết vấn đề trên cơ sở tìm hiểu về vấn đề  à học sinh tìm tòi, giải quyết vấn đề và trình bày trước tập thể à giáo viên nhân xét  và học sinh cùng rút kinh nghiệm. Trên tinh thần này, phương pháp giao tiếp trở thành phương pháp chủ yếu trong việc dạy học đặc biệt là dạy tiếng Việt vì nó góp phần quan trọng vào việc phát triển lời nói cho học sinh. Ngôn ngữ khi tách khỏi hoạt động giao tiếp tìh nó không còn sức sống, trở thành một hệ thống khô cứng, hay nói cách khác,ngôn ngữ phải được thể hiện trong nhiều hoạt động giao tiếp khác nhau trên cơ sở của sự sinh động của lời nói. Học sinh chỉ thật sự lĩnh hội được lời nói của người khác và tự tự lời nói đúng, hay, phù hợp với ngữ cảnh khi các em trực tiếp tham gia vào hoạt động giao tiếp.
Theo quan điểm giao tiếp, phương pháp tốt nhất để dạy tiếng Việt bằng quan điểm giao tiếp là phải hướng học sinh vào hoạt động nói năng. Vì thế chúng ta đã khẳng định hoạt động giao tiếp vừa là phương tiện vừa là mục đích của việc dạy học tiếng Việt. Học tiếng Việt chúng ta không chỉ biết về nó mà phải sử dụng thành thạo nó biến nó thành vũ khí vào tư di và giao tiếp. Muốn như thế thầy giáo cần có cách hướng học sinh vào hoạt động nói năng bằng các hoạt động ngoại khóa, các cuộc tranh luận, kích thích nhu cầu và động cơ giao tiếp cho các em.
Muốn thực hiện được điều này, giáo viên phải nắm được tâm lí lứa tuổi, khả năng tiếp nhân kiến thức, tính hệ thống logic của kiến thức cung cấp cho các em.



CHƯƠNG 2
PHONG CÁCH HỌC VÀ MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ KIẾN NGHỊ
VỀ CÁCH DẠY CHÙM BÀI PHONG CÁCH HỌC Ở PHỔ THÔNG

2.1 Phong cách ngôn ngữ và mục tiêu của việc dạy các phong cách ngôn ngữ
Dạy tiếng Việt không dừng lại ở việc cung cấp kiến thức cho học sinh về từ, câu mà phải giúp các em biết cách tổ chức giao tiếp, tổ chức văn bản. Khi nói tới văn bản thì không thể không nói tới phông cách. Văn bản bao giờ cũng gắn với một phong cách nhất định.
Khi nói tới Phong cách là nói đến một cái gì đó riêng biệt, độc đáo, được. Còn nói về phong cách học là nói tới một bộ môn khoa học nghiên cứu những nguyên tắc lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ để truyền đạt một nội dung tư tưởng, tình cảm nhất định  nhằm đạt dược hiệu quả thực tiễn cụ thể  trong những điều kiện giao tiếp cụ thể.
Mục tiêu của phong cách học “cung cấp cho học sinh những tri thức về tri thức học đã được hê thống hóa, được nâng cao so với cacds lớp dưới đảm bảo cho các em có cơ sở lí thuyết cần thiết  để rèn luyện kĩ năng lĩnh hội văn bản kĩ năng sản sinh văn bản và kĩ năng nói, viết phù hợp với điều kiện giao tiếp” [1, tr163]. Nói cách khác, phần phong cách học nhằm giúp học sinh thưởng thức được cái hay của một văn bản viết, nói đúng phong cách và tự mình biết xây dựng cách nói cách viết đúng chuẩn.
Phương pháp dạy phong cách gồm:
- Phương pháp dạy lí thuyết: so sánh đối lập; thử nghiệm phong cách học; thuyết minh phong cách học; xác định sắc thái tu từ  của các phương tiện ngôn ngữ trong ngữ cảnh.
- Phương pháp dạy thực hành: Hướng dẫn thực hành; đánh giá việc luyện tập thực hành của học sinh
2.2. Một số phân tích, đánh giá và kiến nghị dạy chùm phong cách học theo quan điểm giao tiếp
Trước khi đến vơi những nhận xét, chúng ta nhìn tổng quát về cách mục tiêu cần đạt và cách trình bài đề mục của sáu phong cách ngôn ngữ trong SGK THPT (cơ bản):
  
Phong cách/ Cách trình bày đề mục
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Phong cách ngôn ngữ báo chí
Phong cách ngôn ngữ chính luận
Phong cách ngôn ngữ khoa học
Phong cách ngôn ngữ hành chính
1. Mục tiêu cần đạt:
- Nắm được khái niệm NNSH, PCNNSH và các đặc trưng của nó;
 - Phân tích và sử dụng ngôn ngữ theo PCNNSH


- Nắm được khái niệm NNNT, PCNNNT và các đặc trưng của nó;
- Phân tích và sử dụng ngôn ngữ theo PCNNNT





- Hiểu  được khái niệm NNBC, các thể loại chủ yếu và các đặc điểm PCNNBC;
- Biết viết một bài đưa tin trên báo tường, biết phân tích bài phóng sự hoặc tiểu phẩm báo chí

- Hiểu được khái niệm NNCL, các  loại văn bản và các đặc điểm PCNNCL;
- Biết phân tích và viết một bài văn nghị luận chính trị


- Nắm được khái niệm NNKH, PCNNKH và các đặc trưng của nó;
-  Biết phân biệt PCNNKH với các PC khác, biết sử dụng NNKH trong trường hợp cần thiết
- Nắm được khái niệm NNHC, PCNNHC và các đặc trưng cơ bản của PCNNHC;
- Có kĩ năng soạn thảo một số văn bnar hành chính khi cần thiết

2. Các đề mục
I. Ngôn ngữ sinh hoạt


1. Khái niệm NNSH
2. Các dạng biểu hiện của NNSH

Ghi nhớ
3. Luyện tập
II. Phong cách NNSH



1. Tính cụ thể




2. Tính cảm xúc












3. Tính cá thể


Ghi nhớ
III.Luyện tập 
I. Ngôn ngữ nghệ thuật











Ghi nhớ


II. Phong cách NNNT




1. Tính hình tượng




2. Tính truyền cảm












3. Tính cá thể hóa


Ghi nhớ
III. Luyện tập 
I. Ngôn ngữ báo chí



1. Một số thể loại văn bản báo chí
2. Nhận xét chung và văn bản báo chí và NNBC
Ghi nhớ
Luyện tập

II. Các phương tiện diễn đạt và đặc trưng của NNBC
1. Các pt diễn đạt:
- Từ vựng
- Ngữ pháp
- Biện pháp tu từ
2. Các đặc trưng
- Tính thông tin thời sự
- Tính ngắn gọn
- Tính sinh động hấp dẫn








Ghi nhớ
Luyện tập
I. Văn bản chính luận  và ngôn ngữ chính luận
1. Tìm hiểu về văn bản chính luận
2. Nhận xét chung và văn bản chính luận và NNCL
Ghi nhớ
Luyện tập

II. Các phương tiện diễn đạt và đặc trưng của NNCL
1. Các pt diễn đạt:
- Từ vựng
- Ngữ pháp
- Biện pháp tu từ
2. Các đặc trưng
- Tính công khai về quan điểm chính trị
- Tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận
- Tính truyền cảm, thuyết phục




Ghi nhớ
Luyện tập
I. Văn bản khoa học và ngôn ngữ khoa học
1. Văn bản khoa học

2. Ngôn Ngữ KH



Ghi nhớ


II.Đặc trưng của phong cách NNKH


1. Tính khái quát, trừu tượng



2. Tính lí trí, logic












3. Tính khách quan, phi cá thể
Ghi nhớ
Luyện tập
I. Văn bản hành chính và ngôn ngữ  hành chính
1. Văn bản hành chính

2. Ngôn ngữ hành chính


Ghi nhớ


II. Đặc trưng của phong cách NNHC

1. Tính khuôn mẫu



2. Tính minh xác












3. Tính công cụ


Ghi nhớ
Luyện tập
2.2.1. Nhận xét, đánh giá chung
2.2.1.1. Những ưu điểm
- Như đã đề cập trên, khi nói đến phong cách là nói đến cái gì đó riêng biệt, cái tiêu không trùng lặp. Ở chùm bài về phong cách học được trình bày ở THPT với các yêu cầu cần đạt của mỗi bài, ta thấy rõ một nội dung mà tất cả các phong cách đều hướng đến là học sinh phải biết được các khái niệm và ngôn ngữ, phong cách ngôn ngữ, đặc trưng và biết cách phân tích cũng như bước đầu biết sử dụng từng PCNN nhất định. Nói cách khác là các em sẽ nắm được kiến thức cơ bản về từng PCNN.
- Căn cứ vào cách trình bày của SGK đơn giản, dễ tiếp thu, giáo viên có thể linh hoạt trong cách dạy: từ việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu các ngữ liệu, dẫn các em đến với những khái niệm về ngôn ngữ, phong cách, đặc trưng của từng phong cách; hoặc cũng có thể từ việc diễn giảng đưa ra khái niệm ban đầu để hướng học sinh đi đến phân tích ngữ liệu nhằm làm sáng tỏ vấn đề đã đề cập.
- Mỗi bài được dạy theo từng khối lớp có sự thống nhất từ: mục tiêu cần đạt, nội dung trình bày và phần ghi nhớ.
2.2.1.2. Những hạn chế
- Nếu căn cứ theo mục tiêu cần đạt từng PCNN một theo từng khối lớp, ta cho rằng chúng thống nhất với nhau và mục tiêu hướng đến đều tương tự nhau nhưng khi đối chiếu sáu bài PC với ba khối lớp khác nhau thì ta có thể thấy một điều, yêu cầu của từng bài có sự khác biệt rõ rệt trừ hai Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật thì các phong cách ngôn ngữ còn lại đều yêu cầu học sinh có viết được văn bản. Có một điều quan trọng tôi muốn đề cập ở đây, hai phong cách không yêu cầu viết mới thật sự là phong cách mà các em tiếp xúc hằng ngày: đó là việc giao tiếp và phân tích các tác phẩm văn chương trong trường PT.
 - Về cách trình bày, khi đối chiếu sáu bài phong cách học ở ba khối lớp, ta thấy Cách trình bài đề mục có một số bài chưa khoa học, cụ thể trong bài phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (đó là phần I có I.1 mà không có I.2). Ở ba bài PCNNSH, PCNNBC, PCNNCL ở phần I đều có Luyện tập rồi sang phần II lại tiếp tục Luyện tập. Vậy trong một bài có đến hai phần luyện tập, điều đó dẫn đến việc bài học trình bày không khoa học.
- Về cách đặt đề mục cũng không thống nhất, mặc dù nội dung triển khai bên trong các đề mục ấy là giống nhau (Ở phần II của các bài PCNNSH, PCNNNT thì tên đề mục: NNSH và NNNT  với hai bài PCNN khoa học, PCNN hành chính thì tên đề mục: Đặc trưng PCNNKH và Đặc trưng PCNNHC nhưng nội dung trình bày bên trong đều nói về đặc trưng của từng phong cách một.
- Mỗi phong cách điều có phương tiện diễn đạt nhưng chỉ có hai bài PCNNBC và PCNNCL là được trình bày về các phương tiện diễn đạt.
- Ở mỗi phần ghi nhớ khi nói về phong cách ngôn ngữ thì chỉ nói “Phong cách ngôn ngữ…. có… đặc trưng”chứ chưa trình bày được khái niệm của từng phong cách ngôn ngữ một.
Bên trên là những nhận xét và đánh giá chung về các bài phong cách của SGK, phần sau tôi sẽ trình bày cụ thể hơn về những điều đề cập.
2.2.2 Kiến nghị dạy chùm bài phong cách ngôn ngữ ở THPT theo quan điểm giao tiếp
2.2.2.1 Đối với cả chùm bài
- Thứ nhất: Xác định kết quả tương đương nhau ởcho từng từng bài ở Phần kết quả cần đạt. Không nên đòi hỏi quá cao ở phong cách này mà sơ lược ở PHNN khác.
- Thứ hai: Chúng ta nên thống nhất cách trình bày đề mục cho toàn chùm bài.
- Thứ ba: nên bổ sung những kiến thức cần thiết như khái niệm về phong cách ngôn ngữ, chức năng, đặc điểm ngôn ngữ của từng PCNN.
2.2.2.2.  Bổ sung đề mục và nội dung ở từng bài
R Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
 Cần bổ sung: Khái niệm phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, chức năng, đặc điểm ngôn ngữ:
1. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (còn gọi là phong cahcs khẩu ngữ tự nhiên, phong cách hội thoại, phong cách khẩu ngữ là phong cách được dùng trong giao tiếp, sinh hoạt hằng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức” [3,tr25]
2. Chức năng
- Chức năng trao đổi tư tưởng tình cảm.
           - Chức năng tạo tiếp (tạo ra ngôn ngữ trong quan hệ giao tiếp giữa người nói và người nghe).
3. Đặc điểm ngôn ngữ
a.  Ngữ âm
Khi nói năng, người ta không chú ý đến chuẩn mực ngữ âm mà nói năng và cử chỉ điệu bộ rất thoải mái. Do đặc điểm này nên nó tồn tại nhiều biến thể ngữ âm.
Ngữ điệu mang dấu ấn riêng của từng cá nhân có tính chất tự nhiên, tự phát và bị chi phối rõ rệt bằng các nhân tố ngoài ngôn ngữ. Tâm lí giao tiếp thay đổi theo ngoại cảnh và tình cảm của người tham gia. Trong một số trường hợp ngữ diệu là nội dung thông báo chứ không phải lời nói.
b. Từ ngữ
Từ mang tính cụ thể, hình ảnh và sắc thái biểu cảm” [3,tr28]. Vì vậy dẫn đến một số hiện tượng:
- Có một lớp từ chuyên dùng ở PC này mà không dùng ở PH khác (hết xảy, hết ý, số dách, bỏ mẹ,…), tiếng tục, tiếng lóng,…
- Sử dụng nhiều từ láy, tượng thanh, tượng hình.
- Dùng cách nói so sánh ví von, so sánh, ẩn dụ,...
3. Cú pháp
- Câu đơn được sử dụng với tầng tỉ lệ lớn và có tần suất cao. Đặc biệt là câu cảm thán, câu chào hỏi,…
- Câu được sử dụng trong PCNN này tồn tại hai xu hướng trái ngược nhau.m Một mặt dùng câu tỉnh lược, có khi tỉnh lược tối đa. Mặt khác, sử dụng câu có cú pháp xen những yếu tố dư, lủng củng.
R Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
1. Khái niệm phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Là kiểu diễn đạt được dùng tong sáng tác văn chương. Phong cách này là dạng tồn tại chọn vẹn của ngôn ngữ toàn dân” [3,tr43].
2. Chức năng
- Thông báo.
- Tác động.
- Thẩm mĩ.
3. Đặc điểm ngôn ngữ
a.      Ngữ âm
  Âm thanh, ngữ điệu, tiết tấu, âm điệu rất quan trọng. Tất cả tiềm năng về ngữ âm được vận dụng một cách nghệ thuật để đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ về mặt ngữ âm của người đọc, người nghe. Mọi biến thể ngữ âm đều được sửu dụng.
b. Từ ngữ
             Từ ngữ dang dạng: từ từ phổ thông, địa phương, biệt ngữ; đến từ đơn, từ láy, từ Hán Việt;… Nói tóm lại, ngôn ngữ ở PCNN này mang tính tổng hợp.
           c. Cú pháp
- Sử dụng hầu hết các kiểu cấu trúc câu, tuy nhiên câu dơn vẫn chiếm tỉ lệ cao.
- Câu thường được mở rộng thành phần định ngữ, trạng ngữ và các loại kết cấu tu từ  như đảo ngữ, song đôi cú pháp,…
RPhong cách ngôn ngữ báo chí         
1. Khái niệm phong cách ngôn ngữ báo chí
 “Là kiểu diễn đạt được dùng trong lĩnh vực thông tin của xã hội về tất cả những vấn đề thời sự”[3.tr32].
2. Chức năng
- Thông báo
- Tác động
RPhong cách ngôn ngữ chính luận
1. Khái niệm về phong cách ngôn ngữ chính luận
“Là kiểu diễn đạt được dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội, người viết thường bày tỏ ý kiến, bộc lộ công khai quân điểm chính trị sự đánh giá về vấn đề nóng hổi của đời sống xã hội”[3.tr35].
2. Chức năng
- Thông báo
- Tác động
- Chứng minh
RPhong cách ngôn ngữ khoa học
1. Khái niệm phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Kiểu diễn đạt dùng trong lĩnh vực nghiên cứu học tập và phổ biến khoa học. Đậy là phong cách ngôn ngữ đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu.
2. Chức năng
- Thông báo
- Chứng minh
3. Đặc điểm ngôn ngữ
a. Ngữ âm
- Khi phát âm ở PCNN này, người ta chú ý tới chuẩn mực ngữ âm.
- Ngữ điệu được hạn chế để tăng tính thuyết phục của sự lập luận.
b. Từ ngữ
Sử dụng nhiều và sử dụng chính xác các thuật ngữ khoa học.
c. Cú pháp
Câu hoàn chỉnh, kết cấu chặt chẽ, rõ ràng để đảm bảo yêu cầu chính xác, hiểu một nghĩa.
RPhong cách ngôn ngữ hành chính
1. Khái niệm phong cách ngôn ngữ hành chính
Là kiểu diễn đạt được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực hành chính, thuộc hoàn cảnh mang tính chất nghi thức. Đây là giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với các cơ quan Nàh nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này với nước khác.
2. Chức năng
- Thông báo
- Sai khiến
3. Đặc điểm ngôn ngữ
a. Ngữ âm và chữ viết
- Khi phát âm ở PCNN này phải chú ý chuẩn mực ngữ âm, phát âm rõ ràng, chính xác. Khi tồn tại ở dạng nói thì người nói không phải trình bài hay diễn đạt văn bản mà phải đọc lại văn bản.
- Ngữ điệu phụ thuộc vào cấu trúc của nội dung văn bản.
- Chữ viết được trình bày theo mẫu thống nhất về font và size.
b. Từ ngữ
- Sử dụng từ  ngữ chuyên dùng (từ hành chính).
- Dùng những từ ngữ chính xác, từ mang nghĩa trung hòa hoặc mang sắc thái trrang trọng.
c. Cú pháp
- Chủ yếu dùng câu tường thuật.
- Câu thường phức hợp, các bộ phận trong câu phức hợp này thường được phân theo hệ thống con chữ (a, b, c,…) hoặc con số (1, 2, 3,…) bằng cách ngắt dòng và viết hoa đầu câu.
 Thực hiện được việc này, chúng ta dễ dàng giúp HS nắm được kiến thức cơ bản của từng phong cách một và có thể đối chiếu so sánh sự khác biệt giữa các phong cách ngôn ngữ.  
2.2.3. Cách dạy chùm bài phong cách ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp
            Do đây là một chùm bài phong cách ngôn ngữ, nên tôi chỉ trình bài cách dạy cụ thể một bài:  Bài phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Sau đó, chúng ta có thể dựa vào cách trình bày này để tiếp tiếp tục hoàn thành các bài còn lại

                    PHONG CÁCH NGÔN NGỮ SINH HOẠT

Do đây là bài đầu tiên nói về phong cách ngôn ngữ ở THPT. Giáo viên nên hình thành cho các em cách tìm hiểu bài để các bài sau các em trên cơ sở ban đầu có thể tự tổ chức tìm nên kiến thức tương tự.
Ở phần Kết quả cần đạt: học sinh cần nắm được khái niệm ngôn ngữ SH, PCNNSH và các đặc trưng của nó; phân tích và sử dụng ngôn ngữ theo PCNNSH.
Vậy căn cứ theo kết quả cần đạt của SGK, giáo viên cần cung cấp cho HS các khái niệm về ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt; đặc trưng của PCNNSH; qua phần ngữ liệu và luyện tập hình thành cho HS khả năng phân tích và sử dụng ngôn ngữ theo phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.

* Ở bài này có hai vấn đề trình bày chưa khoa học:
- Phần I. Ngôn ngữ sinh hoạt
Chúng ta không nên cách thành hai tiểu mục. Bởi phần I.2 có thể nhập chung phần khái niệm để cụ thể thêm về ngôn ngữ sinh hoạt. Còn phần 3. Luyện tập  nên chăng phải có bởi sang phần II bởi một số bài phong cách ngôn ngữ tiếp theo như PCNNNT, PCNNKH, PCNNHC thì không trình bày như thế.
 Sở dĩ, tôi có nhận xét như thế vì với cách trình bày này đã làm cho phần I của bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có phần 1 mà không có phần 2.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp, chúng ta nên để HS tự thâm nhập vào bài học để từ đó rút ra những kiến thức và kinh nghiệm tích góp được, hình thành kĩ năng phân tích, đánh giá vấn đề tìm hiểu, đặc biệt phải tạo kĩ năng giao tiếp cho các em. Để hình thành những kĩ năng ấy, người thấy giáo phải tạo được những hứng thú cho HS trong quá trình tìm hiểu kiến thức. Bởi có sự phấn khởi, tò mò, thích tìm hiểu thì các em mới hăng say thâm gia và hoạt động học của mình. Khi tự mình tìm ra những kiến thức, khả năng tự tin  trình bày trước tập thể và tự rút kinh nghiệm, các em mới thấy được tác dụng của việc học theo quan điểm giao tiếp.
Do đây là bài học về phong cách ngôn ngữ đầu tiên, để HS có thể tiếp thu tốt kiến thức ở bài này, ta có thể dạy theo cách hình thành cho các em khái niệm ban đầu rồi thông qua ngữ liệu SGK để giúp các em hiểu thấu đó về vấn đề được đề cập, hoặc cũng có thể từ ngữ liệu SGK HS đúc kết kết luận. Nhìn chung, SGK trình bày khá đầy đủ kiến thức về PCNNSH. Tuy nhiên, khi nói đến phong cách ngôn ngữ nói chung và phong cách ngôn ngữ sinh hoạt nói riêng thì ngoài định nghĩa ngôn ngữ và các đặc trưng, thì mỗi PCNN đều có chức năng và đặc điểm ngôn ngữ riêng biệt, nên để HS có thể hiểu thấu đáo về PC này chúng ta nên trình bày thêm cho các em về định nghĩa cụ thể hơn về PCNNSH, chức năng và đặc điểm ngôn ngữ của PCNNSH.
Cụ thể, chúng ta có thể triển khai bài theo trình tự như sau
I. Ngôn ngữ sinh hoạt
Ở phần này, HS cần nắm được khái niệm về ngôn ngữ sinh hoạt và các dạng biểu hiện của ngôn ngữ sinh hoạt nên giáo viên có thể cho HS hoạt động cá nhân:
Yêu cầu HS đọc ngữ liệu (I.1), GV khẳng định đây là ngôn là ngôn ngữ sinh hoạt. Từ đó hỏi HS: Ngôn ngữ sinh hoạt là gì?
Từ việc tìm hiểu ngữ liệu kết hợp với kiến thức ở bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, HS có thể dễ dàng trả lời được câu hỏi (bằng ý đầu tiên của phần ghi nhớ SGK/tr114).
Tiếp đến bằng diễn giảng, GV cho hỏi HS: Ngôn ngữ sinh hoạt được biểu hiện ở  dạng nào? (HS dựa vào sách giáo khoa trả lời câu hỏi).
Bằng diễn giảng và ví dụ về hai dạng biểu hiện của NNSH, GV giúp các em hiểu rõ hơn vấn đề và đi đến kết luận ở phần ghi nhớ SGK.
II. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
 Ở phần này HS phải nắm được thế nào là phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, chức năng và các đặc trưng của nó. Do khái niệm PCNNSH và chức năng PCNNSH chưa được trình bày ở SGK, nên trức hết, GV có thể đưa ra khái niệm PCNNSH và chức năng PCNNSH:
1. Khái niệm PCNNSH
Giáo viên có thể cho HS tìm hiểu ngữ liệu của phần I để đưa ra khái niệm
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (còn gọi là phong cách khẩu ngữ tự nhiên, phong cách hội thoại, phong cách khẩu ngữ) là phong cách được dùng trong giao tiếp, sinh hoạt hằng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức[3,tr25].
2. Chức năng
Chức năng trao đổi tư tưởng tình cảm và chức năng tạo tiếp (tạo ra ngôn ngữ trong quan hệ giao tiếp giữa người nói và người nghe).
3. Đặc trưng
Ở phần này, các đặc trưng đã được trình bày rõ ở SGK, GV đặt câu hỏi: có những đặ trưng nào? Qua ví dụ SGK, em hãy cụ thể hóa từng đặc trưng? (Học sinh thảo luận nhóm, nhóm có thể từ 6-8 HS, thảo luận 5-7 phút)
Sau đó, đại diện nhóm, các em lên bảng trình bày lại những gì nhóm thảo luận được, các thành viên trong nhóm có thể bổ sung. Sau đó, GV yêu cầu nhận xét của các nhóm khác, cuối cùng GV chốt ý vấn đề và cho điểm nhóm có ý tốt nhất và cho các em ghi ba đặc trưng:
- Tính cụ thể
- Tính cảm xúc
- Tính cá thể.
III. Đặc điểm ngôn ngữ
Ta có thể dẫn ngữ liệu sau để yêu cầu HS tìm hiểu đặc điểm về ngôn ngữ (ngữ âm, từ ngữ, câu của PCNNSH)
“ Cô Mĩ Qua thân mến!
Hổm gầy cô về chển, cô có mạnh phẻ hông? Cỡ này, dứ tui nước lên quá xá. Tối ngày ngồi trên nhà, ngó ga bốn phía thấy tàn là nước, buồn chí xứ! Lâu lâu, tuội con ních lối xóm hồi đó học dí cô, tụ tập lại nhà tui chơi dí con Lài, tuội nó nhắc cô quài. Tuội nó hô: phải chi cô dìa dứ này chơi, tuội nó dại cô bơi xuồng ga tuốt ngoài đồng lớn, đi cắt bọn xún, bẻ bông diên điển chắc là cô phái lắm. Còn con Lài nó nói cô dìa là tụi nó xúm lợi đổ bánh sèo nhưn tép dí bông điên điển cho cô ăn đã luôn.
Cô chở về thành phố lâu quá gồi, sao hổng dìa đậy chơi chong mùa nước cho biết dứ người ta? Chắc tại tuộii con nít chọ cô quài, nói cô Mĩ Qua là Ma Quỉ nên cô mắc cỡ, cô hổng dìa nữa. Ừ, mà tới chừng nào cô ra chường làm cô daos? Tôi rất mong cô dìa đậy dạy con Lài hộc nửa, nó mến cô lắm. Tôi đương thắc cho cô một cái dõng đặng cô nằm nghỉ mệt, làm “món quà” phương xa, mà tui dấu dữ lắm, hổng ai biết tui thắc cho ai đâu. Thôi, tôi hết biết viết dống dì nửa. Tạm biệt cô giáo Mĩ Qua nghen! Cô nhớ về thăm sốm này nghen!
Anh Ba của con Lài”.
Để dẫn các âm đến những đặc điểm sau:
Do được biểu hiện chủ yếu ở dạng nói nên PCNNSH có những đặc điểm
1. Ngữ âm
- Khi nói năng, người ta không chú ý đến chuẩn mực ngữ âm mà nói năng và cử chỉ điệu bộ rất thoải mái. Do đặc điểm này nên nó tồn tại nhiều biến thể ngữ âm.
- Ngữ điệu mang dấu ấn riêng của từng ca nhân và bị chi phối rõ rết bằng các nhân tố ngoài ngôn ngữ. tâm lí giao tiếp thay đổi theo ngoại cảnh và tình cảm của người tham gia. Trong một số trường hợp ngữ diệu là nội dung thông báo chứ không phải lời nói.
2. Từ ngữ
Từ mang tính cụ thể, hình ảnh và sắc thái biểu cảm”[3,tr28]. Vì vậy dẫn đến một số hiện tượng:
- Có một lớp từ chuyên dùng ở PC này mà không dùng ở PC khác (hết xảy, hết ý, số dách, bỏ mẹ,…), tiếng tục, tiếng lóng,…
- Sử dụng nhiều từ láy, tượng thanh, tượng hình.
- Dùng cách nói so sánh ví von, so sánh, ẩn dụ,...
3. Cú pháp
- Câu đơn được sử dụng với tầng số lớn, đặc biệt là câu cảm thán, câu chào hỏi,…
- Câu có lúc tỉnh lược, tỉnh lược tối đa, có lúc lại dùng cú pháp xen những yếu tố dư, lủng củng.
III. Luyện tập
Chúng ta quan niệm, dạy theo quan điểm giao tiếp là phải để người học tự thâm nhập để lĩnh hội kiến thức thông qua các tình huống có vấn đề do người dạy tạo nên, cũng có thể do sự tò mò, ham học hỏi. Hay nói cách khác, là cho học sinh tham gia vào hoạt động nói năng trong giao tiếp để rèn luyện cho các em khả năng nói, diễn đạt. Vì vậy phần luyện tập ngoài củng cố những kiến thức lí thuyết đã học thì còn tạo cho các em khả năng phân tích, đánh giá những gì mình đã học, nên phần này cần được dành nhiều thời gian để HS giải quyết các bài tập.
Do yêu cầu để phần I.3 sang tìm hiểu chung với phần luyện tập nên tôi sẽ phân tích chung với phần này.
1. Bài tập 3 (SGK/tr144)
Bài tập này tương đối dễ nên GV có thể yêu cầu một HS đọc ngữ liệu và câu hỏi, sau đó yêu cầu cá nhân học sinh trả lời.
Câu a:
Chúng ta thấy rõ một điều, bài tập này nhằm củng cố cho các em biết được ngôn ngữ sinh hoạt tuy gắn với giao tiếp không mang tính lễ nghi.Thông qua các từ ngữ trong hai câu ca dao: lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau hay chuông kêu thử tiếng người ngoan thử lời,… Các êm sẽ thấy ngôn ngữ có sẵn trong xã hội nhưng khi nói năng phải biết lựa chon từ ngữ để tránh gây phản cảm cũng như để đạt hiệu quả trong giao tiếp
Câu b:
 Qua việc hiểu và phân tích được ngôn ngữ sinh hoạt ở bài tập này là Ngôn ngữ sinh hoạt được biểu hiện dưới dạng viết, mang đậm sắc thái của người Nam bộ: phương ngữ Nam bộ: phú quới; địa danh: Rạch Giá, Cà Mau, Đầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu. Từ bài tập này, các em có thể củng cố kiến thức về tính cá thể và ngôn ngữ của vùng niềm.
Đối với các bài tập 1,2,3 trang 127, chủ yếu yêu cầu HS tìm hiểu về việc sử dụng từ ngữ trong ngữ liệu. Tránh tình trạng lặp đi lặp lại các yêu cầu của bài tập, GV cho học sinh phân thành 4 hoặc 6 nhóm, mỗi nhóm đều tìm hiểu cả ba bài tập trong 10 – 15 phút (tùy theo thời gian còn lại của tiết học). Sau khi hết thời gian quy đinh, GV yêu cầu nhóm trình bày lại kết quả thảo luận của nhóm (lưu ý: mỗi nhóm chỉ trình bày một bài tập theo thứ tự GV yêu cầu), các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
2. Bài tập 1 (SGK/tr127)
Ở bài tập này, qua đoạn trích nhật kí của Đặng Thùy Trân HS có thể củng cố kiến thức về các dạng biểu hiện của PCNNSH (nhật kí cũng thuộc PCNNSH biểu hiện ở dạng viết – tự thoại. Các em còn rút ra việc viết nhật kí sẽ giúp các em có khả năng diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ tốt hơn.
3. Bài tập 2 (SGK/tr127)
Ở bài tập này, củng cố kiến thức cho HS về đặc điểm ngôn ngữ của PCNNSH (cách dùng từ ngữ: Mình –ta, hàm răng, lòa xòa, đập,…)
4. Bài tập 3 (SGK/tr127)
Ở bài tập này, củng cố kiến thức cho HS các biểu hiện của PCNNSH. Đó là ngôn ngữ sinh hoạt được biểu hiện trong các tác phẩm văn học. Những  cử chỉ và hành động của nhân vật không thể bộc lộ nên cần phải có lời dẫn và ngôn ngữ được chọn lọc tinh tế hơn sơ với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người lao động.
Sau khi củng cố kiến thức và kết thúc bài, giáo viên cho HS về nhà bằng bài tập:
?Em hãy viết một đoạn văn mô phỏng lại một cuộc thoại trong giao tiếp sử dụng ngôn ngữ của PCNNSH hoặc tự tạo tình huống hội thoại với nhau sử dụng ngôn ngữ của PCNNSH? Sau đó phân tích đặc trưng và đặc điểm từ ngữ của đoạn thoại ấy?
GV kiểm tra bài tập về nhà này bằng cách gọi HS trả bài bằng cách kết hợp lí thuyết với việc  yêu cầu các em trình bày bài tập này trước lớp. Điều này, hình thành cho các em kĩ năng sử dụng ngôn ngữ của PCNNSH và trong giao tiếp hằng ngày – đáp ứng yêu cầu cuối cùng của phần kết quả cần đạt.
Do yêu cầu thống nhất về hình thức trình bày, nên chúng ta có thể căn cứ vào cách trình bày trên để dạy  bài Phong cách ngôn nghệ thuật bằng cách cho các em thảo luận nhóm (GV có thể yêu cầu HS chia làm 3-4 tùy theo số lượng HS của lớp, nhóm thảo luận trong thời gian 20 – 25 phút, ). GV hướng dẫn HS dựa vào các đề mục của bài trước và ngữ liệu SGK (hoặc ngữ liệu do GV bổ sung) để tìm hiểu và rút ra nội dung cần thiết cho bài học. Sau đó, các em sẽ thuyết trình phần vừa thảo luận được để giáo các nhóm khác và giáo viên nhận xét bổ sung (giáo viên có thể căn cứ phần trình bày thuyết phục nhất để cộng hoặc cho điểm cả nhóm). Tốt nhất, chúng ta nên cho các em lập bảng so sánh đối chiếu để các em thấy được sự tương quan cũng như khác biệt giữa hai phong cách từ đó các em sẽ nhớ lâu hơn.
Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý, sáu bài phong cách ngôn ngữ được phân dạy ở ba khối lớp 10, 11, 12. Do có khoảng cách về thời gian, các em sẽ dễ quên kiến thức cũ, nên giáo viên cần củng cố kiến thức trước cần thiết khi tiến hành dạy bài mới bằng cách đưa ra tình huống hoặc ngữ liệu để các em nhận diện và phân tích những kiến thức cũ để sẵn sàng tam lí bước vào bài mới.
Khi chuyển sang khối lớp mới, GV có thể làm mẫu lại như bài PCNNHS để bài tiếp theo, các em có thể đối chiếu mà thảo luận để học tốt bài mới. Hoặc GV cũng có thể yêu cầu HS  trên nền tảng kiến thức cũ để tìm hiểu kiến thức mới. Để đảm bảo HS có thể làm được theo yêu cầu của mình thì giáo viên cần tìm hiểu năng lực và khả năng của HS mình mà điều chỉnh cách dạy phù hợp.

C. KẾT LUẬN
Hiện nay, chương trình SGK, trên cơ sở giảm tải nhưng yêu cầu ở HS còn quá nặng, song song đó, do yêu cầu về nghề nghiệp trước mắt, HS thường chú trọng những môn tự nhiên, các môn xã hội bị các em xao lãng, nên mỗi thầy cô giáo đều tìm cho mình cách gây hứng thú cho học sinh trong quá trình truyền đạt kiến thức. Hiện nay, GV tùy theo khả năng, lực lực đứng lớp của mình mà cá những cách dạy học khác nhau. Những mục đích cuối cùng là cũng nhằm để các em có thể tiếp nhận kiến thức của bài học một cách chuẩn nhất. Trên đây là những trình bày về giao tiếp, quan điểm dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp, cũng như những nhận xét, đánh giá và cách dạy chùm bài phong cách ngôn ngữ. Mong rằng với việc dạy chùm bài phong cách theo quan điểm giao tiếp có thể đem đến cho HS những kiến thức cơ bản nhất về  phong cách ngôn ngữ, giao tiếp, kĩ năng sử dụng cách ngôn ngữ của các phong cách trong quá trình giao tiếp để đạt hiệu quả cao trong giao tiếp hằng ngày.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phương pháp dạy tiếng Việt – Lê A chủ biên – NXB Giáo dục.
2. Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt – Bùi Minh Toán - NXB Giáo dục 1999
3. Giáo trình Phong cách ngôn ngữ học – Nguyễn Văn Nở - Đại học Cần Thơ 2004
4. Giáo trình giáo dục học – Lê Phước Lộc – Đại học Cần thơ
5. Sách giáo khoa các khối 10, 11, 12 (Cơ bản) – NXB Giáo dục
6. Sách giáo viên các khối 10, 11, 12 (Cơ bản) – NXB Giáo dục
7. Sách thiết kế bài giảng các khối 10, 11, 12 (Cơ bản) – NXB Hà Nội.
8. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn THPT – NXB Giáo dục
9. Tài liệu từ Internet.













 Câu hỏi: Vận dụng quan điểm giao tiếp để phân tích, đánh giá, đề ra kiến nghị dạy chùm bài tiếng Việt (chùm bài về từ, chùm bài về câu, chùm bài về phong cách,…).
A.    LỜI NÓI ĐẦU
            Từ lâu, theo truyền thống, việc dạy và học nói chung và dạy tiếng Việt nói riêng được hiểu là quá trình người thầy truyền đạt kiến thức còn học sinh là người lãnh hội những kiến thức ấy. Bên cạnh những ưu điểm thì cách dạy và học  ấy sẽ làm cho người học thụ động trong việc lãnh hội kiến thức.
Hiện nạy với quan điểm giáo dục là “lấy HS làm trung tâm” thì việc dạy và học có sự thay đổi. Ở quan điểm này, người thầy không mất đi vị trí của mình mà chuyển sang một vị trí mới – vị trí hướng dẫn, nếu trước kia người thầy là người truyền thụ tất tả thì ở đây người thầy như người “cầm lái” để hướng “con thuyền” HS của mình đến “bờ bến kiến thức”, còn học sinh ở đây sẽ là người khám phá, tìm ra kiến thức mới với sự hướng dẫn của GV.
Dạy tiếng không chỉ là dạy cho HS những quy tắc, cấu trúc,… của tiếng Việt mà còn phải dạy các em sử dụng tốt tiếng Việt trong giao tiếp. Đáp ứng yêu cầu đó là quan điểm dạy học bằng quan điểm giao tiếp. Bằng việc cho người học tự tìm đến kiến thức qua việc tìm tòi, thảo luận, trình bày ý kiến của mình trước tập thể sẽ hình thành cho các em kĩ năng nghe, nói đọc, viết và năng lực giao tiếp.
Bằng những kiến thức cơ bản về lí thuyết giao tiếp, quân điểm dạy học tiếng việt  bằng quan điểm giao tiếp. Đặc biệt là những nhận xét đánh giá và chùm bài phong cách ngôn ngữ trình bày ở SGK và những kiến nghị và cách dạy chùm bài phong cách, tôi mong có thể giúp GV và HS có thể dễ dàng tiến hành việc truyền đạt và lĩnh hội kiến thức về chùm bài phong cách cũng như việc hình thành ở HS việc chủ động tìm hiểu kiến thức thông qua thảo luận, thuyết trình để từ đó các em có thể mạnh dạng đưa ra ý kiến trong học tập. Bài viết này, do người viết vận dụng những hiểu biết của môn học cũng như những kinh nghiệm giảng dạy của nản thân, trong thời gian ngắn khó có thể tìm hiểu thấu đáo cặn kẻ từng vấn đề, mong có sự góp ý của thầy cùng các bạn để bài viết có thể hoàn thiện hơn.






















B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
VÀI NÉT  VỀ LÍ THUYẾT GIAO TIẾP
VÀ QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT

1.1. Lí  thuyết giao tiếp
1.1.1. Giao tiếp là gì?
Như chúng ta đã biết, “giao tiếp là sự tiếp xúc, giao lưu giữa người và người trong xã hội, qua đó con người bộc lộ và truyền đạt cho nhau những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, thái độ đối với nhau và đối với điều được truyền đạt”[2,tr7]. Phương tiện chủ yếu của hoạt động giao tiếp đó là ngôn ngữ (ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết).
1.1.2. Hai quá trình của giao tiếp
Giao tiếp diễn ra bởi hai quá trình:
- Quá trình tạo lập văn bản nơi người nói (còn gọi là quá trình phát tin hay kí mã).
            - Quá trình lĩnh hội văn bản nơi người nghe (còn gọi là quá trình giải mã).
1.1.3. Các nhân tố giao tiếp
Hoạt động giao tiếp nhất định xảy ra đòi hỏi phải có những nhân tố giao tiếp:
- Nhân vật giao tiếp: người tham gia vào quá trình giao tiếp, họ có mặt và luân phiên nhau trong vai trò người nói và người nghe. Đặc điểm và cá tính, nghề nghiệp, vốn sống, trình độ văn hóa,… luôn chi phối đến ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp.
- Hoàn cảnh giao tiếp: là môi trường diễn ra hoạt động giao tiếp. Nó có thể là hoàn cảnh không gian thời gian diễn ra hoạt động giao tiếp, nó có thể là hoàn cảnh văn hóa lịch sử mà các nhân vật giao tiếp tồn tại và diễn ra hoạt động giao tiếp.
- Nội dung giao tiếp: điều được đề cập đến trong giao tiếp. Nó bao gồm phạm vi khái quát, bao trùm và những nội quy cụ thể.
- Mục đích giao tiếp: là đích đến của hoạt động giao tiếp. Không có cuộc giao tiếp nào là không có mục đích, hay nói cách khác dù muốn hay không thì mỗi cuộc giao tiếp đều có mục đích nhất định.
Từ những nhân tố trên, ta có thể thấy rằng bốn nhân tố trên thỏa mãn điều kiện trả lời các câu hỏi: Nhân vật giao tiếp trả lời câu hỏi: ai nói (viết)? nói (viết) với ai? Hoàn cảnh giao tiếp trả lời câu hỏi: nói (viết) trong hoàn cảnh nào? Nội dung giao tiếp trả lời câu hỏi: nói (viết) cái gì hoặc nói viết về cái gì? Mục đích giao tiếp trả lời câu hỏi: nói (viết) để làm gì? Hoặc nhằm mục đích gì?
1.2. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt
1.2.1. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt là gì?
a. Dạy và học tiếng Việt là dạy gì, học gì?
Đối tượng của tiếng Việt là việc dạy và hoc; hoạt động của thầy; hoạt động của học sinh. Vậy dạy và học tiếng Việt là dạy cái gì và học cái gì?
Dạy tiếng Việt là quá trình cung cấp cho học sinh tri thức về ngôn ngữ, hệ thống tiếng Việt, các quy tắc sử dụng tiếng Việt các dạng lời nói và kĩ năng sử dụng tiếng Việt vào hoạt động giao tiếp” [1, tr35].
Dạy và học như thế nào? Đó chính là phương thức hoạt động của thầy cô giáo và học sinh. Nó bao gồm việc soạn thảo các phương pháp, thủ pháp, hình thức và phương tiện dạy và học tiếng Việt.
Tại sao lại dạy và học như thế? Điều này phải căn cứ vào sự nghiên cứu và am hiểu tiếng Việt một cách sâu sắc của các nhà nghiên cứu và sự cần thiết của tiếng Việt cũng như  khả năng am hiểu tiếng Việt của  học sinh.
b. Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt là gì?
Quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt là dạy học trong hoạt động giao tiếp, bằng giao tiếp nhằm hình thành và củng cố và nâng cao năng lực giao tiếp cho người học. Cụ thể, ở học sinh phổ thông dạy theo quan điểm giao tiếp là dạy cho các em kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết ngoài ra còn hình thành khả năng ứng xử trong giao tiếp. Bởi tiếng Việt ngoài nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những tri thức ngôn ngữ học, hệ thống tiếng Việt những quy tắc hoạt đông và những sản phẩm của nó trong hoạt động giao tiếp thì mặc khác tiếng Việt là công cụ giao tiếp và tư duy nên nó còn chức năng trang bị cho học sinh công cụ giao tiếp.
Khi nói đến giao tiếp là nói đến hệ thống từ ngữ. Mà từ vốn là đơn vị sẵn có trong hệ thống ngôn ngữ, mỗi con người từ khi sinh ra và lớn lên đã tích lũy cho mình vốn từ của xã hội để làm vật liệu cho mình trong hoạt động nhận thức và giao tiếp.
1.2.2. Cơ sở của quan điểm giao tiếp trong dạy học tiếng Việt
Xuất phát từ yêu cầu của xã hội. Chúng ta đều biết, khi sinh ra và lớn lên con người không thể sống riêng lẽ tách biệt mà tồn tại trong mối quan hệ công đồng, và để tồn tại họ phải lao động, chính mối quan hệ này những nhu cầu hằng ngày lao động làm nảy sinh nhu cầu của con người đó là qua trình giao tiếp. Để giao tiếp được đòi hỏi con người phải có phương tiện giao tiếp và đó chính là ngôn ngữ. Chính vì thế mà Mác đã khẳng định “ngôn ngữ chỉ ra đời trong giao tiếp”. Đầu tiên khi chưa có chữ viết, con người giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ nói, tuy nhiên ngôn ngữ nói bị hạn chế là bị giới hạn bởi khoảng cách không gian nên dần dần bằng hệ thống kí hiệu, ám hiệu thì chữ viết ra đời, dù chữ viết có thô sơ nhưng vẫn phần nào đáp ứng được nhu cầu của con người. Từ đó, ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người (dạng nói hoặc viết) nguồn gốc, quá trình hình thành ngôn ngữ của loài người nói chung và hình thành ngôn ngữ của từng cá nhân nói riêng.
Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Ngôn ngữ sẽ được hiện thực hóa trong quá trình giao tiếp, hơn nữa từ có thể biến đổi và chuyển hóa về chức năng và thực hiện các chức năng mới không phải chức năng vốn có của nó trong hệ thống ngôn ngữ.
Ngôn ngữ tồn tại độc lập, không duy truyền vì thế giao tiếp là điều kiện tiên quyết để hình thành ngôn ngữ ở mỗi cá nhân.
Từ những phân tích trên ta có thể thấy rằng xuất phát từ chức năng xã hội của ngôn ngữ, chức năng làm công cụ tư duy và đặc biệt là chức năng là phương tiện để giao tiếp có thể khẳng định chỉ trong giao tiếp thì ngôn ngữ của con người mới có thể hình thành, sinh động, đa dạng và phong phú hơn so với trạng thái ban đầu của nó. Trong quá trình giao tiếp, mỗi cá nhân sẽ tích lũy cho mình vốn ngôn từ riêng và để đạt được hiệu quả cao trong giao tiếp đòi hỏi con người phải nắm vững các quy tắc vận hành của ngôn ngữ, do ngôn ngữ không duy truyền mà chỉ hình thành trong giao tiếp. Nên đó là cơ sở hình thành việc dạy và học tiếng Việt.
1.2.3. Nội dung
 Tiếng Việt bao gồm hai bộ phận. Thứ nhất là bộ phận tri thức về ngôn ngữ học về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Ở học sinh phổ thông chúng ta không đào tạo những nhà ngôn ngữ học nên chỉ cần cung cấp cho các em một số khái niệm và những hiểu biết cơ sở về môn học. Bộ phận thứ hai tiếng Việt được coi như đối tượng cần giảng dạy, nó được hiểu như một hệ thống công cụ hợp thành gồm ngữ âm từ vựng và ngữ pháp, thứ hai nó được coi như một hoạt động, những quy tắc sử dụng điều khiển công cụ đó trong đời sống hằng ngày, cá nhân cũng như xã hội, thứ ba nó được coi là sản phẩm trong hoạt động giao tiếp gồm văn bản, lời thoại nói và viết.

Mặt khác tiếng Việt còn là bộ môn công cụ cho mội bộ môn nên dạy tiếng Việt là dạy cho học sinh sử dụng tốt tiếng Việt với tư cách là công cụ tư duy, nhận thức và giao  tiếp xã hội, nói cách khác là dạy cho học sinh năng lực hoạt động lời nói bằng tiếng Việt. Trên cơ sở này, chúng ta thấy rõ một điều là trong quá trình dạy và học thì giáo viên và học sinh là các nhân vật giao tiếp, có đích đến nhất định, đó là kiến thức hình thành và nâng cao trình độ hiểu biết của học sinh cũng như giáo viên. Chính vì thế, theo quan điểm giao tiếp, chúng ta cần lựa chọn:

T Nội dung tri thức khi truyền đạt cho học sinh:
- Những hiểu biết về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
           - Những quy tắc sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp:
 + Những quy tắc dùng từ
 + Những quy tắc dùng câu
 + Những quy tắc dùng đoạn,…
          - Hình thành và củng cố kĩ năng sử dụng tiếng Việt.
T Kĩ năng giao tiếp:
- Quan điểm về kĩ năng.
- Cơ sở tâm lí của việc hành thành kĩ năng.
- Bài tập – phương tiện hình thành kĩ năng.
Tóm lại nội dung dạy và học tiếng Việt bao gồm lí thuyết và thực hành về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Trong đó, nổi bật hơn cả với tư cách là công cụ giao tiếp và tư duy, nội dung quan trọng của tiếng Việt là rèn luyện kĩ năng hoạt động giao tiếp.
Mục tiêu chính của  việc vận dung quân điểm giao tiếp vào việc dạy tiếng Việt là căn cứ vào trình độ của học sinh, đảm bảo tính khoa học và hệ thống, chuẩn tiếng Việt, các quy luật vận dụng tiếng Việt vào giao tiếp, hình thành hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết làm cho học sinh yêu mến, phát huy và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt “một của cải vô cùng phong phú, lâu đời của dân tộc ta”[1, tr36].
1.2.4. Phương pháp dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp
Xưa nay chúng ta hay nói, khi dạy học đồi hỏi phải có các phương pháp dạy học phù hợp. Vậy phương pháp dạy học là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này, tuy nhiên khái niệm được mọi người tán thành nhiều nhất cho rằng “phương pháp dạy học là cách thức làm việc giữa thầy giáo và  học sinh, nhờ đó mà học sinh nắm vững  được kiến thức, kĩ năng và kĩ xảo hình thành thế giới quan và phát triển năng lực” [1, tr61]. Các phương pháp dạy học tiếng Việt thường được sử dụng như:
Phương pháp thông báo – giải thích: người thầy dùng lời nói của mình để giải thích minh họa những tri thức mới còn học sinh chú ý lắng nghe, suy nghĩ và tiếp nhận những tri thức đó. Đây là phương thức truyền thống, chúng ta không nên quá lạm dụng phương pháp này vì nó dễ biến học sinh trở thành người thụ động khi tiếp nhận kiến thức từ thầy.
Phương pháp phân tích ngôn ngữ: từ việc quan sát phân tích các hiện tượng ngôn ngữ theo các chủ đề nhất định và tìm ra những kí hiệu đặc trưng của hiện tượng ấy. Nó bao gồm: Phân tích – phát hiện, phân tích – chứng minh, phân tích phán đoán, phân tích tổng hợp.
Phương pháp rèn luyên theo mẫu: là phương pháp mà thầy giáo chọn và giới thiệu các mẫu hoạt động ngôn ngữ rồi hướng dẫn học sinh phân tích và nắm vững cơ chế của chúng và bước trước mẫu đó một cách sáng tạo vào lời nói của mình.
Phương pháp giao tiếp: hướng dẫn học sinh vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện nhiệm vụ của quá trình giao tiếp có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia và hoạt động giao tiếp. Phương pháp này được thực hiện theo các bước sau: giáo viên tạo tình huống có vấn đềà kích thích sự tìm tòi, suy nghĩ ở học sinh  học sinh sẽ định hướng để giải quyết vấn đề trên cơ sở tìm hiểu về vấn đề  à học sinh tìm tòi, giải quyết vấn đề và trình bày trước tập thể à giáo viên nhân xét  và học sinh cùng rút kinh nghiệm. Trên tinh thần này, phương pháp giao tiếp trở thành phương pháp chủ yếu trong việc dạy học đặc biệt là dạy tiếng Việt vì nó góp phần quan trọng vào việc phát triển lời nói cho học sinh. Ngôn ngữ khi tách khỏi hoạt động giao tiếp tìh nó không còn sức sống, trở thành một hệ thống khô cứng, hay nói cách khác,ngôn ngữ phải được thể hiện trong nhiều hoạt động giao tiếp khác nhau trên cơ sở của sự sinh động của lời nói. Học sinh chỉ thật sự lĩnh hội được lời nói của người khác và tự tự lời nói đúng, hay, phù hợp với ngữ cảnh khi các em trực tiếp tham gia vào hoạt động giao tiếp.
Theo quan điểm giao tiếp, phương pháp tốt nhất để dạy tiếng Việt bằng quan điểm giao tiếp là phải hướng học sinh vào hoạt động nói năng. Vì thế chúng ta đã khẳng định hoạt động giao tiếp vừa là phương tiện vừa là mục đích của việc dạy học tiếng Việt. Học tiếng Việt chúng ta không chỉ biết về nó mà phải sử dụng thành thạo nó biến nó thành vũ khí vào tư di và giao tiếp. Muốn như thế thầy giáo cần có cách hướng học sinh vào hoạt động nói năng bằng các hoạt động ngoại khóa, các cuộc tranh luận, kích thích nhu cầu và động cơ giao tiếp cho các em.
Muốn thực hiện được điều này, giáo viên phải nắm được tâm lí lứa tuổi, khả năng tiếp nhân kiến thức, tính hệ thống logic của kiến thức cung cấp cho các em.







CHƯƠNG 2
PHONG CÁCH HỌC VÀ MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ KIẾN NGHỊ
VỀ CÁCH DẠY CHÙM BÀI PHONG CÁCH HỌC Ở PHỔ THÔNG

2.1 Phong cách ngôn ngữ và mục tiêu của việc dạy các phong cách ngôn ngữ
Dạy tiếng Việt không dừng lại ở việc cung cấp kiến thức cho học sinh về từ, câu mà phải giúp các em biết cách tổ chức giao tiếp, tổ chức văn bản. Khi nói tới văn bản thì không thể không nói tới phông cách. Văn bản bao giờ cũng gắn với một phong cách nhất định.
Khi nói tới Phong cách là nói đến một cái gì đó riêng biệt, độc đáo, được. Còn nói về phong cách học là nói tới một bộ môn khoa học nghiên cứu những nguyên tắc lựa chọn và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ để truyền đạt một nội dung tư tưởng, tình cảm nhất định  nhằm đạt dược hiệu quả thực tiễn cụ thể  trong những điều kiện giao tiếp cụ thể.
Mục tiêu của phong cách học “cung cấp cho học sinh những tri thức về tri thức học đã được hê thống hóa, được nâng cao so với cacds lớp dưới đảm bảo cho các em có cơ sở lí thuyết cần thiết  để rèn luyện kĩ năng lĩnh hội văn bản kĩ năng sản sinh văn bản và kĩ năng nói, viết phù hợp với điều kiện giao tiếp” [1, tr163]. Nói cách khác, phần phong cách học nhằm giúp học sinh thưởng thức được cái hay của một văn bản viết, nói đúng phong cách và tự mình biết xây dựng cách nói cách viết đúng chuẩn.
Phương pháp dạy phong cách gồm:
- Phương pháp dạy lí thuyết: so sánh đối lập; thử nghiệm phong cách học; thuyết minh phong cách học; xác định sắc thái tu từ  của các phương tiện ngôn ngữ trong ngữ cảnh.
- Phương pháp dạy thực hành: Hướng dẫn thực hành; đánh giá việc luyện tập thực hành của học sinh
2.2. Một số phân tích, đánh giá và kiến nghị dạy chùm phong cách học theo quan điểm giao tiếp
Trước khi đến vơi những nhận xét, chúng ta nhìn tổng quát về cách mục tiêu cần đạt và cách trình bài đề mục của sáu phong cách ngôn ngữ trong SGK THPT (cơ bản):


Phong cách/ Cách trình bày đề mục
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Phong cách ngôn ngữ báo chí
Phong cách ngôn ngữ chính luận
Phong cách ngôn ngữ khoa học
Phong cách ngôn ngữ hành chính
1. Mục tiêu cần đạt:
- Nắm được khái niệm NNSH, PCNNSH và các đặc trưng của nó;
 - Phân tích và sử dụng ngôn ngữ theo PCNNSH


- Nắm được khái niệm NNNT, PCNNNT và các đặc trưng của nó;
- Phân tích và sử dụng ngôn ngữ theo PCNNNT





- Hiểu  được khái niệm NNBC, các thể loại chủ yếu và các đặc điểm PCNNBC;
- Biết viết một bài đưa tin trên báo tường, biết phân tích bài phóng sự hoặc tiểu phẩm báo chí

- Hiểu được khái niệm NNCL, các  loại văn bản và các đặc điểm PCNNCL;
- Biết phân tích và viết một bài văn nghị luận chính trị


- Nắm được khái niệm NNKH, PCNNKH và các đặc trưng của nó;
-  Biết phân biệt PCNNKH với các PC khác, biết sử dụng NNKH trong trường hợp cần thiết
- Nắm được khái niệm NNHC, PCNNHC và các đặc trưng cơ bản của PCNNHC;
- Có kĩ năng soạn thảo một số văn bnar hành chính khi cần thiết

2. Các đề mục
I. Ngôn ngữ sinh hoạt


1. Khái niệm NNSH
2. Các dạng biểu hiện của NNSH

Ghi nhớ
3. Luyện tập
II. Phong cách NNSH



1. Tính cụ thể




2. Tính cảm xúc












3. Tính cá thể


Ghi nhớ
III.Luyện tập 
I. Ngôn ngữ nghệ thuật











Ghi nhớ


II. Phong cách NNNT




1. Tính hình tượng




2. Tính truyền cảm












3. Tính cá thể hóa


Ghi nhớ
III. Luyện tập 
I. Ngôn ngữ báo chí



1. Một số thể loại văn bản báo chí
2. Nhận xét chung và văn bản báo chí và NNBC
Ghi nhớ
Luyện tập

II. Các phương tiện diễn đạt và đặc trưng của NNBC
1. Các pt diễn đạt:
- Từ vựng
- Ngữ pháp
- Biện pháp tu từ
2. Các đặc trưng
- Tính thông tin thời sự
- Tính ngắn gọn
- Tính sinh động hấp dẫn








Ghi nhớ
Luyện tập
I. Văn bản chính luận  và ngôn ngữ chính luận
1. Tìm hiểu về văn bản chính luận
2. Nhận xét chung và văn bản chính luận và NNCL
Ghi nhớ
Luyện tập

II. Các phương tiện diễn đạt và đặc trưng của NNCL
1. Các pt diễn đạt:
- Từ vựng
- Ngữ pháp
- Biện pháp tu từ
2. Các đặc trưng
- Tính công khai về quan điểm chính trị
- Tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận
- Tính truyền cảm, thuyết phục




Ghi nhớ
Luyện tập
I. Văn bản khoa học và ngôn ngữ khoa học
1. Văn bản khoa học

2. Ngôn Ngữ KH



Ghi nhớ


II.Đặc trưng của phong cách NNKH


1. Tính khái quát, trừu tượng



2. Tính lí trí, logic












3. Tính khách quan, phi cá thể
Ghi nhớ
Luyện tập
I. Văn bản hành chính và ngôn ngữ  hành chính
1. Văn bản hành chính

2. Ngôn ngữ hành chính



Ghi nhớ


II. Đặc trưng của phong cách NNHC


1. Tính khuôn mẫu




2. Tính minh xác












3. Tính công cụ


Ghi nhớ
Luyện tập
2.2.1. Nhận xét, đánh giá chung
2.2.1.1. Những ưu điểm
- Như đã đề cập trên, khi nói đến phong cách là nói đến cái gì đó riêng biệt, cái tiêu không trùng lặp. Ở chùm bài về phong cách học được trình bày ở THPT với các yêu cầu cần đạt của mỗi bài, ta thấy rõ một nội dung mà tất cả các phong cách đều hướng đến là học sinh phải biết được các khái niệm và ngôn ngữ, phong cách ngôn ngữ, đặc trưng và biết cách phân tích cũng như bước đầu biết sử dụng từng PCNN nhất định. Nói cách khác là các em sẽ nắm được kiến thức cơ bản về từng PCNN.
- Căn cứ vào cách trình bày của SGK đơn giản, dễ tiếp thu, giáo viên có thể linh hoạt trong cách dạy: từ việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu các ngữ liệu, dẫn các em đến với những khái niệm về ngôn ngữ, phong cách, đặc trưng của từng phong cách; hoặc cũng có thể từ việc diễn giảng đưa ra khái niệm ban đầu để hướng học sinh đi đến phân tích ngữ liệu nhằm làm sáng tỏ vấn đề đã đề cập.
- Mỗi bài được dạy theo từng khối lớp có sự thống nhất từ: mục tiêu cần đạt, nội dung trình bày và phần ghi nhớ.
2.2.1.2. Những hạn chế
- Nếu căn cứ theo mục tiêu cần đạt từng PCNN một theo từng khối lớp, ta cho rằng chúng thống nhất với nhau và mục tiêu hướng đến đều tương tự nhau nhưng khi đối chiếu sáu bài PC với ba khối lớp khác nhau thì ta có thể thấy một điều, yêu cầu của từng bài có sự khác biệt rõ rệt trừ hai Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật thì các phong cách ngôn ngữ còn lại đều yêu cầu học sinh có viết được văn bản. Có một điều quan trọng tôi muốn đề cập ở đây, hai phong cách không yêu cầu viết mới thật sự là phong cách mà các em tiếp xúc hằng ngày: đó là việc giao tiếp và phân tích các tác phẩm văn chương trong trường PT.
 - Về cách trình bày, khi đối chiếu sáu bài phong cách học ở ba khối lớp, ta thấy Cách trình bài đề mục có một số bài chưa khoa học, cụ thể trong bài phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (đó là phần I có I.1 mà không có I.2). Ở ba bài PCNNSH, PCNNBC, PCNNCL ở phần I đều có Luyện tập rồi sang phần II lại tiếp tục Luyện tập. Vậy trong một bài có đến hai phần luyện tập, điều đó dẫn đến việc bài học trình bày không khoa học.
- Về cách đặt đề mục cũng không thống nhất, mặc dù nội dung triển khai bên trong các đề mục ấy là giống nhau (Ở phần II của các bài PCNNSH, PCNNNT thì tên đề mục: NNSH và NNNT  với hai bài PCNN khoa học, PCNN hành chính thì tên đề mục: Đặc trưng PCNNKH và Đặc trưng PCNNHC nhưng nội dung trình bày bên trong đều nói về đặc trưng của từng phong cách một.
- Mỗi phong cách điều có phương tiện diễn đạt nhưng chỉ có hai bài PCNNBC và PCNNCL là được trình bày về các phương tiện diễn đạt.
- Ở mỗi phần ghi nhớ khi nói về phong cách ngôn ngữ thì chỉ nói “Phong cách ngôn ngữ…. có… đặc trưng”chứ chưa trình bày được khái niệm của từng phong cách ngôn ngữ một.
Bên trên là những nhận xét và đánh giá chung về các bài phong cách của SGK, phần sau tôi sẽ trình bày cụ thể hơn về những điều đề cập.
2.2.2 Kiến nghị dạy chùm bài phong cách ngôn ngữ ở THPT theo quan điểm giao tiếp
2.2.2.1 Đối với cả chùm bài
- Thứ nhất: Xác định kết quả tương đương nhau ởcho từng từng bài ở Phần kết quả cần đạt. Không nên đòi hỏi quá cao ở phong cách này mà sơ lược ở PHNN khác.
- Thứ hai: Chúng ta nên thống nhất cách trình bày đề mục cho toàn chùm bài.
- Thứ ba: nên bổ sung những kiến thức cần thiết như khái niệm về phong cách ngôn ngữ, chức năng, đặc điểm ngôn ngữ của từng PCNN.
2.2.2.2.  Bổ sung đề mục và nội dung ở từng bài
R Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
 Cần bổ sung: Khái niệm phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, chức năng, đặc điểm ngôn ngữ:
1. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (còn gọi là phong cahcs khẩu ngữ tự nhiên, phong cách hội thoại, phong cách khẩu ngữ là phong cách được dùng trong giao tiếp, sinh hoạt hằng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức” [3,tr25]
2. Chức năng
- Chức năng trao đổi tư tưởng tình cảm.
           - Chức năng tạo tiếp (tạo ra ngôn ngữ trong quan hệ giao tiếp giữa người nói và người nghe).
3. Đặc điểm ngôn ngữ
a.  Ngữ âm
Khi nói năng, người ta không chú ý đến chuẩn mực ngữ âm mà nói năng và cử chỉ điệu bộ rất thoải mái. Do đặc điểm này nên nó tồn tại nhiều biến thể ngữ âm.
Ngữ điệu mang dấu ấn riêng của từng cá nhân có tính chất tự nhiên, tự phát và bị chi phối rõ rệt bằng các nhân tố ngoài ngôn ngữ. Tâm lí giao tiếp thay đổi theo ngoại cảnh và tình cảm của người tham gia. Trong một số trường hợp ngữ diệu là nội dung thông báo chứ không phải lời nói.
b. Từ ngữ
Từ mang tính cụ thể, hình ảnh và sắc thái biểu cảm” [3,tr28]. Vì vậy dẫn đến một số hiện tượng:
- Có một lớp từ chuyên dùng ở PC này mà không dùng ở PH khác (hết xảy, hết ý, số dách, bỏ mẹ,…), tiếng tục, tiếng lóng,…
- Sử dụng nhiều từ láy, tượng thanh, tượng hình.
- Dùng cách nói so sánh ví von, so sánh, ẩn dụ,...
3. Cú pháp
- Câu đơn được sử dụng với tầng tỉ lệ lớn và có tần suất cao. Đặc biệt là câu cảm thán, câu chào hỏi,…
- Câu được sử dụng trong PCNN này tồn tại hai xu hướng trái ngược nhau.m Một mặt dùng câu tỉnh lược, có khi tỉnh lược tối đa. Mặt khác, sử dụng câu có cú pháp xen những yếu tố dư, lủng củng.
R Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
1. Khái niệm phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Là kiểu diễn đạt được dùng tong sáng tác văn chương. Phong cách này là dạng tồn tại chọn vẹn của ngôn ngữ toàn dân” [3,tr43].
2. Chức năng
- Thông báo.
- Tác động.
- Thẩm mĩ.
3. Đặc điểm ngôn ngữ
a.      Ngữ âm
  Âm thanh, ngữ điệu, tiết tấu, âm điệu rất quan trọng. Tất cả tiềm năng về ngữ âm được vận dụng một cách nghệ thuật để đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ về mặt ngữ âm của người đọc, người nghe. Mọi biến thể ngữ âm đều được sửu dụng.
b. Từ ngữ
             Từ ngữ dang dạng: từ từ phổ thông, địa phương, biệt ngữ; đến từ đơn, từ láy, từ Hán Việt;… Nói tóm lại, ngôn ngữ ở PCNN này mang tính tổng hợp.
           c. Cú pháp
- Sử dụng hầu hết các kiểu cấu trúc câu, tuy nhiên câu dơn vẫn chiếm tỉ lệ cao.
- Câu thường được mở rộng thành phần định ngữ, trạng ngữ và các loại kết cấu tu từ  như đảo ngữ, song đôi cú pháp,…
RPhong cách ngôn ngữ báo chí         
1. Khái niệm phong cách ngôn ngữ báo chí
 “Là kiểu diễn đạt được dùng trong lĩnh vực thông tin của xã hội về tất cả những vấn đề thời sự”[3.tr32].
2. Chức năng
- Thông báo
- Tác động
RPhong cách ngôn ngữ chính luận
1. Khái niệm về phong cách ngôn ngữ chính luận
“Là kiểu diễn đạt được dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội, người viết thường bày tỏ ý kiến, bộc lộ công khai quân điểm chính trị sự đánh giá về vấn đề nóng hổi của đời sống xã hội”[3.tr35].
2. Chức năng
- Thông báo
- Tác động
- Chứng minh
RPhong cách ngôn ngữ khoa học
1. Khái niệm phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
Kiểu diễn đạt dùng trong lĩnh vực nghiên cứu học tập và phổ biến khoa học. Đậy là phong cách ngôn ngữ đặc trưng cho các mục đích diễn đạt chuyên môn sâu.
2. Chức năng
- Thông báo
- Chứng minh
3. Đặc điểm ngôn ngữ
a. Ngữ âm
- Khi phát âm ở PCNN này, người ta chú ý tới chuẩn mực ngữ âm.
- Ngữ điệu được hạn chế để tăng tính thuyết phục của sự lập luận.
b. Từ ngữ
Sử dụng nhiều và sử dụng chính xác các thuật ngữ khoa học.
c. Cú pháp
Câu hoàn chỉnh, kết cấu chặt chẽ, rõ ràng để đảm bảo yêu cầu chính xác, hiểu một nghĩa.
RPhong cách ngôn ngữ hành chính
1. Khái niệm phong cách ngôn ngữ hành chính
Là kiểu diễn đạt được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực hành chính, thuộc hoàn cảnh mang tính chất nghi thức. Đây là giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với các cơ quan Nàh nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này với nước khác.
2. Chức năng
- Thông báo
- Sai khiến
3. Đặc điểm ngôn ngữ
a. Ngữ âm và chữ viết
- Khi phát âm ở PCNN này phải chú ý chuẩn mực ngữ âm, phát âm rõ ràng, chính xác. Khi tồn tại ở dạng nói thì người nói không phải trình bài hay diễn đạt văn bản mà phải đọc lại văn bản.
- Ngữ điệu phụ thuộc vào cấu trúc của nội dung văn bản.
- Chữ viết được trình bày theo mẫu thống nhất về font và size.
b. Từ ngữ
- Sử dụng từ  ngữ chuyên dùng (từ hành chính).
- Dùng những từ ngữ chính xác, từ mang nghĩa trung hòa hoặc mang sắc thái trrang trọng.
c. Cú pháp
- Chủ yếu dùng câu tường thuật.
- Câu thường phức hợp, các bộ phận trong câu phức hợp này thường được phân theo hệ thống con chữ (a, b, c,…) hoặc con số (1, 2, 3,…) bằng cách ngắt dòng và viết hoa đầu câu.
 Thực hiện được việc này, chúng ta dễ dàng giúp HS nắm được kiến thức cơ bản của từng phong cách một và có thể đối chiếu so sánh sự khác biệt giữa các phong cách ngôn ngữ.  
2.2.3. Cách dạy chùm bài phong cách ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp
            Do đây là một chùm bài phong cách ngôn ngữ, nên tôi chỉ trình bài cách dạy cụ thể một bài:  Bài phong cách ngôn ngữ sinh hoạt. Sau đó, chúng ta có thể dựa vào cách trình bày này để tiếp tiếp tục hoàn thành các bài còn lại

                    PHONG CÁCH NGÔN NGỮ SINH HOẠT

Do đây là bài đầu tiên nói về phong cách ngôn ngữ ở THPT. Giáo viên nên hình thành cho các em cách tìm hiểu bài để các bài sau các em trên cơ sở ban đầu có thể tự tổ chức tìm nên kiến thức tương tự.
Ở phần Kết quả cần đạt: học sinh cần nắm được khái niệm ngôn ngữ SH, PCNNSH và các đặc trưng của nó; phân tích và sử dụng ngôn ngữ theo PCNNSH.
Vậy căn cứ theo kết quả cần đạt của SGK, giáo viên cần cung cấp cho HS các khái niệm về ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt; đặc trưng của PCNNSH; qua phần ngữ liệu và luyện tập hình thành cho HS khả năng phân tích và sử dụng ngôn ngữ theo phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.

* Ở bài này có hai vấn đề trình bày chưa khoa học:
- Phần I. Ngôn ngữ sinh hoạt
Chúng ta không nên cách thành hai tiểu mục. Bởi phần I.2 có thể nhập chung phần khái niệm để cụ thể thêm về ngôn ngữ sinh hoạt. Còn phần 3. Luyện tập  nên chăng phải có bởi sang phần II bởi một số bài phong cách ngôn ngữ tiếp theo như PCNNNT, PCNNKH, PCNNHC thì không trình bày như thế.
 Sở dĩ, tôi có nhận xét như thế vì với cách trình bày này đã làm cho phần I của bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có phần 1 mà không có phần 2.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp, chúng ta nên để HS tự thâm nhập vào bài học để từ đó rút ra những kiến thức và kinh nghiệm tích góp được, hình thành kĩ năng phân tích, đánh giá vấn đề tìm hiểu, đặc biệt phải tạo kĩ năng giao tiếp cho các em. Để hình thành những kĩ năng ấy, người thấy giáo phải tạo được những hứng thú cho HS trong quá trình tìm hiểu kiến thức. Bởi có sự phấn khởi, tò mò, thích tìm hiểu thì các em mới hăng say thâm gia và hoạt động học của mình. Khi tự mình tìm ra những kiến thức, khả năng tự tin  trình bày trước tập thể và tự rút kinh nghiệm, các em mới thấy được tác dụng của việc học theo quan điểm giao tiếp.
Do đây là bài học về phong cách ngôn ngữ đầu tiên, để HS có thể tiếp thu tốt kiến thức ở bài này, ta có thể dạy theo cách hình thành cho các em khái niệm ban đầu rồi thông qua ngữ liệu SGK để giúp các em hiểu thấu đó về vấn đề được đề cập, hoặc cũng có thể từ ngữ liệu SGK HS đúc kết kết luận. Nhìn chung, SGK trình bày khá đầy đủ kiến thức về PCNNSH. Tuy nhiên, khi nói đến phong cách ngôn ngữ nói chung và phong cách ngôn ngữ sinh hoạt nói riêng thì ngoài định nghĩa ngôn ngữ và các đặc trưng, thì mỗi PCNN đều có chức năng và đặc điểm ngôn ngữ riêng biệt, nên để HS có thể hiểu thấu đáo về PC này chúng ta nên trình bày thêm cho các em về định nghĩa cụ thể hơn về PCNNSH, chức năng và đặc điểm ngôn ngữ của PCNNSH.
Cụ thể, chúng ta có thể triển khai bài theo trình tự như sau
I. Ngôn ngữ sinh hoạt
Ở phần này, HS cần nắm được khái niệm về ngôn ngữ sinh hoạt và các dạng biểu hiện của ngôn ngữ sinh hoạt nên giáo viên có thể cho HS hoạt động cá nhân:
Yêu cầu HS đọc ngữ liệu (I.1), GV khẳng định đây là ngôn là ngôn ngữ sinh hoạt. Từ đó hỏi HS: Ngôn ngữ sinh hoạt là gì?
Từ việc tìm hiểu ngữ liệu kết hợp với kiến thức ở bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, HS có thể dễ dàng trả lời được câu hỏi (bằng ý đầu tiên của phần ghi nhớ SGK/tr114).
Tiếp đến bằng diễn giảng, GV cho hỏi HS: Ngôn ngữ sinh hoạt được biểu hiện ở  dạng nào? (HS dựa vào sách giáo khoa trả lời câu hỏi).
Bằng diễn giảng và ví dụ về hai dạng biểu hiện của NNSH, GV giúp các em hiểu rõ hơn vấn đề và đi đến kết luận ở phần ghi nhớ SGK.
II. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
 Ở phần này HS phải nắm được thế nào là phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, chức năng và các đặc trưng của nó. Do khái niệm PCNNSH và chức năng PCNNSH chưa được trình bày ở SGK, nên trức hết, GV có thể đưa ra khái niệm PCNNSH và chức năng PCNNSH:
1. Khái niệm PCNNSH
Giáo viên có thể cho HS tìm hiểu ngữ liệu của phần I để đưa ra khái niệm
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (còn gọi là phong cách khẩu ngữ tự nhiên, phong cách hội thoại, phong cách khẩu ngữ) là phong cách được dùng trong giao tiếp, sinh hoạt hằng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức[3,tr25].
2. Chức năng
Chức năng trao đổi tư tưởng tình cảm và chức năng tạo tiếp (tạo ra ngôn ngữ trong quan hệ giao tiếp giữa người nói và người nghe).
3. Đặc trưng
Ở phần này, các đặc trưng đã được trình bày rõ ở SGK, GV đặt câu hỏi: có những đặ trưng nào? Qua ví dụ SGK, em hãy cụ thể hóa từng đặc trưng? (Học sinh thảo luận nhóm, nhóm có thể từ 6-8 HS, thảo luận 5-7 phút)
Sau đó, đại diện nhóm, các em lên bảng trình bày lại những gì nhóm thảo luận được, các thành viên trong nhóm có thể bổ sung. Sau đó, GV yêu cầu nhận xét của các nhóm khác, cuối cùng GV chốt ý vấn đề và cho điểm nhóm có ý tốt nhất và cho các em ghi ba đặc trưng:
- Tính cụ thể
- Tính cảm xúc
- Tính cá thể.
III. Đặc điểm ngôn ngữ
Ta có thể dẫn ngữ liệu sau để yêu cầu HS tìm hiểu đặc điểm về ngôn ngữ (ngữ âm, từ ngữ, câu của PCNNSH)
“ Cô Mĩ Qua thân mến!
Hổm gầy cô về chển, cô có mạnh phẻ hông? Cỡ này, dứ tui nước lên quá xá. Tối ngày ngồi trên nhà, ngó ga bốn phía thấy tàn là nước, buồn chí xứ! Lâu lâu, tuội con ních lối xóm hồi đó học dí cô, tụ tập lại nhà tui chơi dí con Lài, tuội nó nhắc cô quài. Tuội nó hô: phải chi cô dìa dứ này chơi, tuội nó dại cô bơi xuồng ga tuốt ngoài đồng lớn, đi cắt bọn xún, bẻ bông diên điển chắc là cô phái lắm. Còn con Lài nó nói cô dìa là tụi nó xúm lợi đổ bánh sèo nhưn tép dí bông điên điển cho cô ăn đã luôn.
Cô chở về thành phố lâu quá gồi, sao hổng dìa đậy chơi chong mùa nước cho biết dứ người ta? Chắc tại tuộii con nít chọ cô quài, nói cô Mĩ Qua là Ma Quỉ nên cô mắc cỡ, cô hổng dìa nữa. Ừ, mà tới chừng nào cô ra chường làm cô daos? Tôi rất mong cô dìa đậy dạy con Lài hộc nửa, nó mến cô lắm. Tôi đương thắc cho cô một cái dõng đặng cô nằm nghỉ mệt, làm “món quà” phương xa, mà tui dấu dữ lắm, hổng ai biết tui thắc cho ai đâu. Thôi, tôi hết biết viết dống dì nửa. Tạm biệt cô giáo Mĩ Qua nghen! Cô nhớ về thăm sốm này nghen!
Anh Ba của con Lài”.
Để dẫn các âm đến những đặc điểm sau:
Do được biểu hiện chủ yếu ở dạng nói nên PCNNSH có những đặc điểm
1. Ngữ âm
- Khi nói năng, người ta không chú ý đến chuẩn mực ngữ âm mà nói năng và cử chỉ điệu bộ rất thoải mái. Do đặc điểm này nên nó tồn tại nhiều biến thể ngữ âm.
- Ngữ điệu mang dấu ấn riêng của từng ca nhân và bị chi phối rõ rết bằng các nhân tố ngoài ngôn ngữ. tâm lí giao tiếp thay đổi theo ngoại cảnh và tình cảm của người tham gia. Trong một số trường hợp ngữ diệu là nội dung thông báo chứ không phải lời nói.
2. Từ ngữ
Từ mang tính cụ thể, hình ảnh và sắc thái biểu cảm”[3,tr28]. Vì vậy dẫn đến một số hiện tượng:
- Có một lớp từ chuyên dùng ở PC này mà không dùng ở PC khác (hết xảy, hết ý, số dách, bỏ mẹ,…), tiếng tục, tiếng lóng,…
- Sử dụng nhiều từ láy, tượng thanh, tượng hình.
- Dùng cách nói so sánh ví von, so sánh, ẩn dụ,...
3. Cú pháp
- Câu đơn được sử dụng với tầng số lớn, đặc biệt là câu cảm thán, câu chào hỏi,…
- Câu có lúc tỉnh lược, tỉnh lược tối đa, có lúc lại dùng cú pháp xen những yếu tố dư, lủng củng.
III. Luyện tập
Chúng ta quan niệm, dạy theo quan điểm giao tiếp là phải để người học tự thâm nhập để lĩnh hội kiến thức thông qua các tình huống có vấn đề do người dạy tạo nên, cũng có thể do sự tò mò, ham học hỏi. Hay nói cách khác, là cho học sinh tham gia vào hoạt động nói năng trong giao tiếp để rèn luyện cho các em khả năng nói, diễn đạt. Vì vậy phần luyện tập ngoài củng cố những kiến thức lí thuyết đã học thì còn tạo cho các em khả năng phân tích, đánh giá những gì mình đã học, nên phần này cần được dành nhiều thời gian để HS giải quyết các bài tập.
Do yêu cầu để phần I.3 sang tìm hiểu chung với phần luyện tập nên tôi sẽ phân tích chung với phần này.
1. Bài tập 3 (SGK/tr144)
Bài tập này tương đối dễ nên GV có thể yêu cầu một HS đọc ngữ liệu và câu hỏi, sau đó yêu cầu cá nhân học sinh trả lời.
Câu a:
Chúng ta thấy rõ một điều, bài tập này nhằm củng cố cho các em biết được ngôn ngữ sinh hoạt tuy gắn với giao tiếp không mang tính lễ nghi.Thông qua các từ ngữ trong hai câu ca dao: lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau hay chuông kêu thử tiếng người ngoan thử lời,… Các êm sẽ thấy ngôn ngữ có sẵn trong xã hội nhưng khi nói năng phải biết lựa chon từ ngữ để tránh gây phản cảm cũng như để đạt hiệu quả trong giao tiếp
Câu b:
 Qua việc hiểu và phân tích được ngôn ngữ sinh hoạt ở bài tập này là Ngôn ngữ sinh hoạt được biểu hiện dưới dạng viết, mang đậm sắc thái của người Nam bộ: phương ngữ Nam bộ: phú quới; địa danh: Rạch Giá, Cà Mau, Đầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu. Từ bài tập này, các em có thể củng cố kiến thức về tính cá thể và ngôn ngữ của vùng niềm.
Đối với các bài tập 1,2,3 trang 127, chủ yếu yêu cầu HS tìm hiểu về việc sử dụng từ ngữ trong ngữ liệu. Tránh tình trạng lặp đi lặp lại các yêu cầu của bài tập, GV cho học sinh phân thành 4 hoặc 6 nhóm, mỗi nhóm đều tìm hiểu cả ba bài tập trong 10 – 15 phút (tùy theo thời gian còn lại của tiết học). Sau khi hết thời gian quy đinh, GV yêu cầu nhóm trình bày lại kết quả thảo luận của nhóm (lưu ý: mỗi nhóm chỉ trình bày một bài tập theo thứ tự GV yêu cầu), các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
2. Bài tập 1 (SGK/tr127)
Ở bài tập này, qua đoạn trích nhật kí của Đặng Thùy Trân HS có thể củng cố kiến thức về các dạng biểu hiện của PCNNSH (nhật kí cũng thuộc PCNNSH biểu hiện ở dạng viết – tự thoại. Các em còn rút ra việc viết nhật kí sẽ giúp các em có khả năng diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ tốt hơn.
3. Bài tập 2 (SGK/tr127)
Ở bài tập này, củng cố kiến thức cho HS về đặc điểm ngôn ngữ của PCNNSH (cách dùng từ ngữ: Mình –ta, hàm răng, lòa xòa, đập,…)
4. Bài tập 3 (SGK/tr127)
Ở bài tập này, củng cố kiến thức cho HS các biểu hiện của PCNNSH. Đó là ngôn ngữ sinh hoạt được biểu hiện trong các tác phẩm văn học. Những  cử chỉ và hành động của nhân vật không thể bộc lộ nên cần phải có lời dẫn và ngôn ngữ được chọn lọc tinh tế hơn sơ với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người lao động.
Sau khi củng cố kiến thức và kết thúc bài, giáo viên cho HS về nhà bằng bài tập:
?Em hãy viết một đoạn văn mô phỏng lại một cuộc thoại trong giao tiếp sử dụng ngôn ngữ của PCNNSH hoặc tự tạo tình huống hội thoại với nhau sử dụng ngôn ngữ của PCNNSH? Sau đó phân tích đặc trưng và đặc điểm từ ngữ của đoạn thoại ấy?
GV kiểm tra bài tập về nhà này bằng cách gọi HS trả bài bằng cách kết hợp lí thuyết với việc  yêu cầu các em trình bày bài tập này trước lớp. Điều này, hình thành cho các em kĩ năng sử dụng ngôn ngữ của PCNNSH và trong giao tiếp hằng ngày – đáp ứng yêu cầu cuối cùng của phần kết quả cần đạt.
Do yêu cầu thống nhất về hình thức trình bày, nên chúng ta có thể căn cứ vào cách trình bày trên để dạy  bài Phong cách ngôn nghệ thuật bằng cách cho các em thảo luận nhóm (GV có thể yêu cầu HS chia làm 3-4 tùy theo số lượng HS của lớp, nhóm thảo luận trong thời gian 20 – 25 phút, ). GV hướng dẫn HS dựa vào các đề mục của bài trước và ngữ liệu SGK (hoặc ngữ liệu do GV bổ sung) để tìm hiểu và rút ra nội dung cần thiết cho bài học. Sau đó, các em sẽ thuyết trình phần vừa thảo luận được để giáo các nhóm khác và giáo viên nhận xét bổ sung (giáo viên có thể căn cứ phần trình bày thuyết phục nhất để cộng hoặc cho điểm cả nhóm). Tốt nhất, chúng ta nên cho các em lập bảng so sánh đối chiếu để các em thấy được sự tương quan cũng như khác biệt giữa hai phong cách từ đó các em sẽ nhớ lâu hơn.
Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý, sáu bài phong cách ngôn ngữ được phân dạy ở ba khối lớp 10, 11, 12. Do có khoảng cách về thời gian, các em sẽ dễ quên kiến thức cũ, nên giáo viên cần củng cố kiến thức trước cần thiết khi tiến hành dạy bài mới bằng cách đưa ra tình huống hoặc ngữ liệu để các em nhận diện và phân tích những kiến thức cũ để sẵn sàng tam lí bước vào bài mới.
Khi chuyển sang khối lớp mới, GV có thể làm mẫu lại như bài PCNNHS để bài tiếp theo, các em có thể đối chiếu mà thảo luận để học tốt bài mới. Hoặc GV cũng có thể yêu cầu HS  trên nền tảng kiến thức cũ để tìm hiểu kiến thức mới. Để đảm bảo HS có thể làm được theo yêu cầu của mình thì giáo viên cần tìm hiểu năng lực và khả năng của HS mình mà điều chỉnh cách dạy phù hợp.


C. KẾT LUẬN
Hiện nay, chương trình SGK, trên cơ sở giảm tải nhưng yêu cầu ở HS còn quá nặng, song song đó, do yêu cầu về nghề nghiệp trước mắt, HS thường chú trọng những môn tự nhiên, các môn xã hội bị các em xao lãng, nên mỗi thầy cô giáo đều tìm cho mình cách gây hứng thú cho học sinh trong quá trình truyền đạt kiến thức. Hiện nay, GV tùy theo khả năng, lực lực đứng lớp của mình mà cá những cách dạy học khác nhau. Những mục đích cuối cùng là cũng nhằm để các em có thể tiếp nhận kiến thức của bài học một cách chuẩn nhất. Trên đây là những trình bày về giao tiếp, quan điểm dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp, cũng như những nhận xét, đánh giá và cách dạy chùm bài phong cách ngôn ngữ. Mong rằng với việc dạy chùm bài phong cách theo quan điểm giao tiếp có thể đem đến cho HS những kiến thức cơ bản nhất về  phong cách ngôn ngữ, giao tiếp, kĩ năng sử dụng cách ngôn ngữ của các phong cách trong quá trình giao tiếp để đạt hiệu quả cao trong giao tiếp hằng ngày.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phương pháp dạy tiếng Việt – Lê A chủ biên – NXB Giáo dục.
2. Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt – Bùi Minh Toán - NXB Giáo dục 1999
3. Giáo trình Phong cách ngôn ngữ học – Nguyễn Văn Nở - Đại học Cần Thơ 2004
4. Giáo trình giáo dục học – Lê Phước Lộc – Đại học Cần thơ
5. Sách giáo khoa các khối 10, 11, 12 (Cơ bản) – NXB Giáo dục
6. Sách giáo viên các khối 10, 11, 12 (Cơ bản) – NXB Giáo dục
7. Sách thiết kế bài giảng các khối 10, 11, 12 (Cơ bản) – NXB Hà Nội.
8. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ văn THPT – NXB Giáo dục
9. Tài liệu từ Internet.
























































Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét