Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

Thi pháp truyện ngắn Thuốc

A.    MỞ ĐẦU
Lỗ Tấn là một nhà văn vĩ đại của Trung Quốc. Ông đã dùng ngòi bút của mình tham gia vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, dồn hết tài năng và tâm huyết để vạch mặt phong kiến, đế quốc đồng thời phanh phui, mổ xẻ những thói hư tật xấu của xã hội. Các tác phẩm chính của ông gồm : Gào thét, Bàng hoàng, A.Q chính truyện, Nấm mồ, Cỏ dại, Thuốc…  Thuốc là một truyện ngắn tiêu biểu cho chủ đề nổi bật trong sáng tác Lỗ Tấn- tìm các căn bệnh tinh thần quốc dân đang cản trở con đường giải phóng dân tộc.
Thi pháp là quá trình sáng tạo những hình thức nghệ thuật của tác phẩm, là những phương thức, phương tiện, những thao tác nghệ thuật của nhà nghệ sĩ ngôn từ. Tìm hiểu thi pháp truyện ngắn Thuốc, nắm được những phương thức, phương tiện nghệ thuật  để đi sâu khám phá ngòi bút độc đáo, thấm đượm giá trị nhân văn và cách mạng của Lỗ Tấn. Từ đó hiểu hơn về quan niệm nghệ thuật cũng như tư tưởng nhân văn của nhà tư tưởng lớn.
B.     NỘI DUNG:
I.                   Một số vấn đề chung
1.      Thi pháp và thi pháp thể loại truyện ngắn
1.1.           Thi pháp
Ngày nay, thuật ngữ “thi pháp” không có gì xa lạ với những người học tập, nghiên cứu hoặc quan tâm đến thưởng thức, phê bình văn học. Vấn đề tiếp cận văn học theo hướng thi pháp, ở Việt Nam, được khởi xướng khoảng từ giữa thế kỉ XX, cho đến nay không còn mới mẻ, đặc biệt là từ khi tự sự học ra đời. Tuy nhiên, nó vẫn đang giữ một vị trí quan trọng trong việc định hướng tiếp nhận văn học. Thi pháp, ngày nay vẫn được xem là chìa khóa để khám phá tác phẩm. Quả thực, nó đã đem lại cho nghiên cứu, phê bình văn học những chiêm nghiệm sâu sắc, thú vị.
Thuật ngữ “thi pháp” được xem như xuất hiện lần đầu tiên với cuốn Nghệ thuật thi ca của Aristotte ở thời cổ đại. Trong đó, ông coi sáng tác như là một kĩ thuật. Sau Aristotte, nhà thơ Horace viết cuốn Nghệ thuật thơ cũng dạy cách làm thơ. Trước đây, ở nước ta nhiều người cũng đã hiểu “thi pháp” như là phương pháp làm thơ. Đó là cách hiểu nặng về thi pháp học sáng tác.
Ngày nay, thi pháp học hiện đại quan niệm “thi pháp” là “hệ thống các phương thức phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học”. (Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1997). Theo đó, mục đích của thi pháp học là nhằm “chia tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mĩ, chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật”. Có thể thấy, thi pháp học hiện đại thiên về thi pháp học tiếp nhận.
Người ta có thể nói tới thi pháp của một tác phẩm, thi pháp sáng tác của một tác giả, thi pháp của một trào lưu, một thời kì, một giai đoạn, một khuynh hướng… “Xét các phương tiện, phương thức nghệ thuật đã được chia tách, có thể nói tới thi pháp của một thể loại…” ( Từ điển thuật ngữ văn học).
1.2.           Thi pháp thể loại truyện ngắn
Thể loại văn học, theo Từ điển thuật ngữ văn học “là dạng thức của tác phẩm văn học,…thể hiện sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy”. Vì vậy, có thể hiểu “thi pháp thể loại” là hệ thống các phương thức phương tiện nghệ thuật biểu hiện đời sống đã trở thành một hệ thống đặc trưng của một thể loại văn học nhất định.
Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt đời sống rất riêng theo kiểu thể loại. Truyện ngắn, so với tiểu thuyết thường có ít nhân vật, sự kiện hơn, thường phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người.
Xét thi pháp thể loại truyện ngắn, người ta thường xét tới các yếu tố cốt truyện, kết cấu, nhân vật, không thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu…Đó là những yếu tố cơ bản nhất của thi pháp thể loại truyện ngắn.
a. Cốt truyện
Cốt truyện là chuỗi các sự kiện được tạo dựng trong tác phẩm tự sự và kịch. Truyện ngắn là thể loại thuộc phương thức tự sự vì vậy truyện ngắn cũng có cốt truyện. Cốt truyện là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội, thể hiện cái nhìn của nhà văn đối với cuộc sống, có sức mạnh hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Chuỗi sự kiến, biến cố ấy được hình thành chủ yếu dựa trên hành động của nhân vật, được tổ chức theo quan hệ nhân quả hoặc quan hệ bộc lộ ý nghĩa. Trên cơ sở đó, mỗi tác giả và ngay ở mỗi tác phẩm cũng thể hiện một phương thức xây dựng riêng. Việc tìm hiểu thi pháp cốt truyện vì vậy không phải là tìm hiểu truyện đó kể cái gì mà là phát hiện dụng ý và quan niệm của tác giả.
b. Nhân vật
Nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu tác phẩm văn học. Goethe – đại văn hào người Đức từng nói: “Con người là điều thú vị nhất đối với con người”. Còn M.Gorki – đại văn hào người Nga thì nói : “Văn học là nhân học”. Thật vậy, Con người chính là đối tượng hàng đầu của văn học.  Con người được tái hiện trong các tác phẩm văn học được gọi là nhân vật văn học. Theo Trần Đình Sử, “nhân vật” là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học – cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ. Các yếu tố thông thường của một nhân vật gồm có: tên, nguồn gốc, ngôn ngữ, hành động, tâm lí, tính cách, số phận…Nhân vật là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sự miêu tả thế giới của văn học có được chiều sâu và tính hình tượng. Nhờ có nhân vật với những lời nói, hành động, tương tác mà cốt truyện được hình thành. Nó được xem như là chìa khóa để nhà văn bước vào thế giới hiện thực, tiếp cận những đề tài, chủ đề mới mẻ, miêu tả và khái quát các loại tính cách xã hội. Và do đó, nhân vật văn học còn có khả năng giúp nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về thế giới, về con người.Vì vậy việc tìm hiểu nhân vật không phải là liệt kê hàng loạt những chi tiết về nhân vật đó. Điều quan trọng là phân tích được, chỉ ra được dụng ý của tác giả, quan niệm tư tưởng của tác giả về cuộc sống, con người.
c. Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù đặc trưng của văn học. Bởi văn học là nghệ thuật thời gian. “Thời gian nghệ thuật là đối tượng, là chủ thể, là công cụ miêu tả, là sự tự ý thức và cảm giác về sự vận động và thay đổi của thế giới… của văn học”. Thời gian trong văn học không giản đơn là cái dung chứa các quá trình đời sống mà là nhân tố độc lập tham gia vào hành động nghệ thuật, là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để tổ chức nội dung nghệ thuật.
d. Không gian nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán định nghĩa: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”.
Cũng như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có một nhân vật nào không có một nền cảnh nào đó. Bản thân người kể chuyện hay nhà thơ trữ tình cũng nhìn nhận sự vật trong một khoảng cách, góc nhìn nhất định.
Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống. Do đó, không thể quy nó về không gian địa lí hay không gian vật lí vật chất. Bản thân không gian địa lí, vật lí vật chất chưa phải là không gian nghệ thuật. Chúng được xem là không gian nghệ thuật một khi biểu hiện mô hình thế giới của con người.
e.  Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ là chất liệu của tác phẩm văn học. Bởi văn học chính là nghệ thuật ngôn từ. Có ngôn ngữ mới có cốt truyện, có nhân vật, có không thời gian nghệ thuật…Cũng từ ngôn ngữ đó mà hình thành giọng điệu của nhà văn. Viết như thế nào cho sâu sắc cho hấp dẫn với nhà văn luôn là một thử thách. Với việc tiếp nhận, thì ngôn ngữ, giọng điệu là một trong những yếu tố góp phần tạo nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm.
2.      Lỗ Tấn và truyện ngắn Thuốc
Lỗ Tấn (18811936) là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc. Ông được giới nghiên cứu văn chương coi là người đặt nền móng cho văn chương hiện đại Trung Quốc và là bậc thầy của thể loại truyện ngắn.
Lỗ Tấn là một trong những nhân vật đi tiên phong, tìm mọi cách để giúp cho đất nước Trung Quốc thức tỉnh, tiến kịp trào lưu tiến bộ của nhân loại. Thời kỳ đầu ông chưa phải là người cộng sản, tuy vậy, trước những thất bại liên tiếp của các cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc thời cận đại, ông vẫn tin tưởng có một ngày nhân dân Trung Quốc sẽ tìm ra con đường tự giải phóng.
 Với niềm tin như thế, Lỗ Tấn hăm hở đi vào các ngành khoa học tự nhiên vì nghĩ rằng khoa học tự nhiên có thể giúp Trung Quốc xoá bỏ tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Song, sau lần xem phim ở trường Đại học y khoa Tiên Đài tại Nhật bản, thấy cảnh người Trung Quốc bị lính Nhật chặt đầu để uy hiếp mà những người Trung Quốc đứng quanh đó vãn thờ ơ, ông giật mình mà nghĩ rằng: "dân mà ngu muội, hèn nhát thì dù thân thể có khoẻ mạnh cũng chỉ có thể làm thứ người mà người ta đưa ra chém đầu thị chúng và là thứ người đứng xem cuộc thị chúng vô vị thế kia mà thôi", nên trước hết phải biến đổi tinh thần của họ, mà muốn vậy, không gì bằng văn nghệ. Và thế là ông bỏ học y mà chuyển sang hoạt động văn nghệ.
Lỗ Tấn là một nhà văn có ý thức lao động nghệ thuật nghiêm túc, có trách nhiệm và luôn tâm niệm:  “Tôi vẫn ôm cái mộng “khải mông” mười năm về trước, cho rằng cần phải “vị nhân sinh” và lại phải cải tạo nhân sinh đó… Cho nên mỗi khi chọn đề tài, tôi đều chọn những người bất hạnh trong xã hội bệnh tật, với mục đích là lôi hết bệnh tật của họ ra, làm cho mọi người chú ý tìm cách chạy chữa.”. Với ông, viết văn để góp phần chạy chữa bệnh trạng tinh thần cho người dân đang từng ngày bị đầu độc bởi các thứ văn hóa nô dịch, ma giáo, thần quyền, hủ tục
Dưới tiền đề tự nhận thức để tự cải tạo linh hồn dân tộc, hai loại hình tượng được tập trung chú ý là nông dân và trí thức. Qua số phận của hai nhân vật này, chủ đề chung được triển khai đa dạng là sự thông suốt linh hồn, sự giáo dục và tái giáo dục tâm hồn. Do tập trung chú ý trạng thái tâm hồn của đối tượng nên nhân vật đều là nhân vật tâm trạng hoặc khoảnh khắc của tâm trạng. Nhân vật không được miêu tả về xuất thân, về thành phần cũng không có ngoại hình chi tiết mà chủ yếu được khắc họa ở nỗi đau tinh thần.
Thể hiện những vấn đề lớn lao và sâu sắc như thế nhưng truyện ngắn của Lỗ Tấn có cấu trúc rất đơn giản, bình dị. Đọc truyện ta bắt gặp gương mặt lo âu, khắc khoải, đau khổ của tác giả. Nhà văn tự dấu mình đi nhưng lại xuất hiện khắp nơi, trong từng câu từng chữ. Âm vang Lỗ Tấn là âm vang của những dấu hỏi kì lạ buộc người đọc không thể dửng dưng. Nó là tiếng chuông cảnh tỉnh và nó được viết ra với thái độ tự phê phán. Đó là sự trăn trở, lo âu về vận mệnh dân tộc, về số phận nhân dân.
Tuyện ngắn Thuốc được viết ngày 25 tháng 4 năm 1919, đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ tứ bùng nổ. Trong bài Hồi ức Anh Phạm Ái Nông, ông nói đến nữ chiến sĩ Cách mạng Thu Cận (1875 – 1907) người cùng quê Thiệu Hưng, du học Nhật trở về sáng lập tờ Trung Quốc nữ bào phát động phong trào phụ nữ bị bắt lên đoạn đầu đài năm 32 tuổi. Ông nói viết Hạ Du là để nói về Thu Cận.
Đây là thời kì đất nước Trung Hoa bị các đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Nhật xâu xé. Xã hội Trung Hoa biến thành nửa phong kiến, nửa thuộc địa nhưng nhân dân lại an phận chịu nhục “Người Trung Quốc ngủ mê trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Đó là căn bệnh đớn hèn, tự thoả mãn, cản trở nghiêm trọng con đường giải phóng dân tộc. Thuốc đã ra đời trong bối cảnh ấy với một thông điệp: cần suy nghĩ nghiêm khắc về một phương thuốc để cứu dân tộc.
II. Thi pháp truyện ngắn Thuốc
1.                  Cốt truyện
“Thuốc” có cốt truyện đơn giản. Truyện được phát triển theo trình tự: 1) Lão Hoa Thuyên đi mua thuốc - bánh bao tẩm máu tử tù - đem về chữa bệnh lao cho con. 2) Vợ chồng lão Hoa nướng “thuốc” và thằng Thuyên -  con trai ăn “thuốc”. 3) Bọn khách trong quán trà và bác Cả Khang nói về “thuốc”và bàn về tên tử tù. 4) Bà Hoa và bà Tứ cùng đi thăm mộ con và gặp nhau trong nghĩa địa nhân ngày thanh minh.
Câu chuyện nhẹ nhàng, không có xung đột gay cấn, nhưng đó một cốt truyện hoàn chỉnh, chặt chẽ, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc mặt tổ chức nghệ thuật và chuyển tải được một nội dung mang tính cách mạng cao.
Nhân vật trung tâm của truyện cũng khá đặc biệt. Truyện của Lỗ Tấn có nhiều nhân vật nhưng khó xác định được đâu là nhân vật chính. Đây là loại truyện được viết theo kiểu xén mặt ngang cuộc sống, tái hiện một mẩu đời trong một khoảnh khắc nào đó. Tác giả không tập trung mô tả nhân vật nào. Qua đối thoại của các nhân vật, qua  hành động của nhân vật, Lỗ Tấn dần dần giới thiệu rõ tính cách của nhân vật, phát triển chủ đề tác phẩm. Cách tác giả không đặt nhân vật người cách mạng ở vị trí trung tâm mà đặt nhân vật xuất hiện phía sau quần chúng đám động thể hiện được chủ đề thức tỉnh quần chúng của truyện.
Truyện có nhiều chi tiết nghệ thuật đắt giá, có ý nghĩa lớn đối với việc thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Đó là chi tiết: con đường mòn chia ranh giới nghĩa địa giữa người chết chém hoặc chết tù phía tay trái và nghĩa địa những người nghèo phía tay phải; chi tiết bà mẹ thằng Huyên bước qua con đường mòn để an ủi mẹ Hạ Du. Một con đường mòn nhỏ cong queo chia nghĩa địa ra hai phần: Một bên là nấm mồ của  những người chết chém hoặc chết tù; một bên là mộ của những người nghèo. “Cả hai bên mộ dày khít, lớp này lớp khác như bánh bao nhà giàu mừng thọ.”. Trong định kiến xã hội về những người tử tù mà giai cấp thống trị tạo ra, giữa họ có một ranh giới ngăn cách, nhưng thực ra cả hai bà mẹ và những đứa con của họ đều là nạn nhân của giai cấp thống trị trong xã hội. Một cái chết vì lưỡi dao oan nghiệt của chế độ, một cái chết vì liều thuốc ngu dân của chế độ. Trong một khoảnh khắc của sự cảm thông, bà Hoa đã bước qua con đường mòn ngăn cách để đến với người mẹ của kẻ tử tù. Đó là một sự cố gắng không dễ để vượt qua và là dấu hiệu khởi đầu của sự thức tỉnh của người lao động.
Hình ảnh vòng hoa trên nấm mồ Hạ Du có một ý nghĩa đặc biệt. Hạ Du bị xem là "kẻ thù của chế độ" vậy mà có ai đó vẫn dám đặt trên nấm mồ Hạ Du một vòng hoa khác thường. Phải chăng đó là một sự lựa chọn đường đi của những người còn sống? Tạm thời quần chúng còn chưa được giác ngộ, chưa hiểu nhiều về cách mạng, song Lỗ Tấn tin rằng căn bệnh u mê của họ vẫn còn có thể chữa được. Vòng hoa trên mộ Hạ Du là niềm tin thấp thoáng về tương lai cách mạng ẩn hiện trong quần chúng trong những ngày đen tối của thời cuộc. Vòng hoa đó không chỉ có ý nghĩa tưởng niệm mà  còn là một lời hứa trước anh linh của người đã khuất, là một sự thách thức đối với chế độ xã hội đương thời, là biểu tượng của tương lai cách mạng sẽ nở hoa.
Sự ngơ ngác của bà mẹ Hạ Du khi đặt câu hỏi “Cái gì thế này?”, Thế này là thế nào?” đã tạo ra một ám ảnh khôn nguôi, khiến người đọc “không trả lời không yên” (Nguyễn Tuân). Và tiếng quạ kêu cất lên sau tiếng khóc, sau lời nguyền của bà Hoa, bà Tứ làm cho âm điệu chủ đạo của thiên truyện “Thuốc” này thêm não nùng, ai oán!
2.                  Thi pháp nhân vật
Với quan niệm viết văn để tìm câu trả lời cho câu hỏi “căn bệnh của quốc dân ở đâu”, để góp phần chữa bệnh trạng tinh thần cho người dân, để đánh thức “Người Trung Quốc vẫn ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ” và cải tạo linh hồn dân tộc. Nhân vật trong truyện ngắn Thuốc cũng giống như những nhân vật khác trong truyện ngắn Lỗ Tấn – đều không được miêu tả về xuất thân, về thành phần cũng không có ngoại hình chi tiết mà chủ yếu được khắc họa ở nỗi đau tinh thần.
Nhân vật được chia thành hai tuyến xen kẽ nhau: một bên là lão Hoa Thuyên và đám quần chúng; một bên là người chiến sĩ cách mạng Hạ Du. Hai tuyến nhân vật này được liên kết lại bởi cái bánh bao tẩm máu người.
Tính cách của lão Hoa Thuyên và đám quần chúng được khắc họa qua hành động mua và bán bánh bao.
Lão Thuyên đi tìm mua bánh bao được tẩm máu người để chữa bệnh lao cho con trai.  Lão là người thật thà nhưng lạc hậu, lão tin rằng bánh bao tẩm máu người có thể chữa lành bệnh cho con trai nên lấy hết số tiền dành dụm của mình mua cho con ăn. Kết quả của tình thương mê muội ấy đã khiến bé Thuyên chẳng những không khỏi bệnh mà còn vô tình đẩy bé đến cái chết hết sức oan uổng. Cái chết của bé Thuyên không phải là chết vì bệnh tật mà chết vì sự mê muội, sự mê tín đã ăn sâu trong nếp nghĩ của người dân Trung Hoa thời ấy. Sinh mệnh của bé Thuyên đã được định đoạt bởi sự lạc hậu, ngu dốt của người dân về khoa học kĩ thuật.
 Không phải chỉ có một mình lão Hoa Thuyên đi tìm mua thứ thuốc kia mà còn có bao nhiêu người “... họ xô nhào tới như nước thuỷ triều... người nào người ấy dướn cổ ra như cổ vịt bị một bàn tay vô hình nắm lấy, xách lên..”
Có thể thấy, tình trạng u mê thể hiện trong niềm tin vào thứ thuốc lạ lùng ấy không còn là một hiện tượng cá biệt nữa mà đã trở thành căn bệnh của rất nhiều người. Những người khách đến quán trà của lão đều đồng tình, ủng hộ cho việc làm của lão Thuyên, thậm chí còn động viên để lão yên tâm về phương thuốc đặc biệt ấy:
 “ Người mặt thịt ngang phè vẫn nói oang oang: 
- Cam đoan thế nào cũng khỏi. Thứ thuốc này đặc biệt lắm. Ông tính lấy về còn nóng hôi hổi, và ăn cũng còn nóng hôi hổi.
“ - Ừ, thằng Thuyên nhà ông may phúc thật! Nhất định khỏi thôi mà! Chẳng trách ông cứ cười cả ngày!
“Bác Cả Khang chạy lại, vỗ vai, nói : 
- Thuyên à! Cam đoan thế nào mày cũng khỏi. Mày đừng ho như thế. Cam đoan thế nào cũng khỏi.” 
Với những lời khẳng định chắc chắn như vậy, chứng tỏ người dân đã tin đến mù quáng vào phương thuốc đặc biệt ấy. Qua việc chiếc bánh bao tẩm máu người, người đọc nhận thấy một sự lạc hậu đến dốt nát của người Trung Quốc lúc bấy giờ. Chính sự thiếu hiểu biết về khoa học, mê tín dị đoan là điều khó tránh khỏi. Cho nên, người dân đã vô tình tạo nên bi kịch đáng sợ mà không hề biết. Tác phẩm miêu tả bi kịch của một gia đình nhưng lại có ý nghĩa khái quát về xã hội.
Lỗ Tấn có một cách xây dựng nhân vật rất đặc biệt: không đặt nhân vật cách mạng vào vị trí chủ yếu mà đặt ở tuyến ngầm phía sau nhân vật đám đông để khắc hoạ chủ đề thức tỉnh quần chúng của truyện.
Nhân vật Hạ Du không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm mà được giới thiệu thông qua các nhân vật khác và qua thái độ của người kể chuyện. Máu tẩm bánh bao để chữa bệnh là máu của Hạ Du - một người yêu nước, một nhà cách mạng tiên phong, dũng cảm xả thân vì nghĩa lớn. Người dân đổ xô đi xem anh bị tử hình, chen chúc nhau mua máu, bán máu. Trong mắt của bộ phận quần chúng nhân dân, anh là cái “thằng khốn nạn”,“hắn điên thật rồi”. Họ cùng bàn tán về cái chết của Hạ Du với thái độ miệt thị, cho rằng hành động của anh là phản nghịch, là làm giặc. Và họ cho rằng trong cái chết của Hạ Du có hai người gặp may. May nhất là Cụ Ba nhờ tố cáo cháu mình nên được thưởng một số tiền lớn mà gia đình khỏi bị liên luỵ, còn lão Hoa thì có máu Hạ Du để chấm bánh bao làm thuốc chữa bệnh cho thằng Thuyên.
Một con người thức thời, đi trước buổi bình minh của thời đại, thức dậy sớm khi mọi người còn “mê ngủ trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”, giác ngộ lí tưởng cách mạng, chiến đấu hi sinh vì quần chúng lại bị chính quần chúng lên án. Anh rất cô đơn, không ai hiểu anh kể cả mẹ anh.
Cái chết của bé Thuyên và những phản ứng khác nhau của người dân về cái chết của Hạ Du đã chứng tỏ Lão Hoa Thuyên và quần chúng nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ vẫn lạc hậu, chưa tiếp cận được với tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Quần chúng tỏ ra lạnh lùng, vô cảm, thờ ơ trước số phận của đồng loại. Một thái độ lãnh đạm đến tàn nhẫn, xót xa. Lỗ Tấn thấy nông dân Trung Quốc lúc bấy giờ phần lớn đều biểu hiện cái thái độ lãnh đạm, sống riêng lẻ, cô độc trong cuộc sống ở nông thôn. Lỗ Tấn cũng đã từng xót xa: “tạo hóa sinh ra con người vốn rất tài tình khiến cho người này không sao cảm thông được nỗi đau trên thể xác người kia. Rồi các bậc thánh hiền và đồ đệ của người lại bổ khuyết cho đấng tạo hóa, làm cho người ta không thể cảm thông được nỗi thống khổ về tinh thần của nhau nữa.” Có thể nói, Lỗ Tấn đã nhìn nhận một cách thẳng thắn những thói hư tật xấu của người dân. Chính thái độ sống hẹp hòi, ích kỉ, tư lợi, thiển cận vô tình biến họ thành những điểm yếu để giai cấp thống trị lợi dụng, điều khiển.
Hầu như người dân vẫn còn mơ hồ, ấu trĩ về chính trị, bàng quan trước những biến động của thời cuộc, không hề biết gì đến cách mạng. Cho nên họ quay lưng với cách mạng, máu của người cách mạng trở thành máu hàng béo bở để trục lợi, kiếm chác. Lỗ Tấn nêu lên một vấn đề: một trong những nguyên nhân khiến cách mạng tư sản thất bại là họ chưa có cơ sở quần chúng, là công tác tuyên truyền còn quá yếu, hay vì cuộc cách mạng này chưa đem lại lợi ích thiết thực cho người dân.
3.                  Thi pháp thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật được xây dựng trong truyện Thuốc là thời gian tuyến tính, thời gian dịch chuyển.
Đó là một buổi sáng sớm, chưa sáng hẳn song cũng đã chuyển sang một ngày mới với “một đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi, nhưng mặt trời chưa mọc”. Bóng tối bao trùm lên không gian ấy, trời không trăng cũng chẳng có sao nên “ngoài những giống đi ăn đêm, còn thì  ngủ say cả”. Lão Hoa phải “đánh diêm, thắp cái đèn nhầy nhụa những dầu là dầu” để tạo ra một thứ ánh sáng “trắng xanh sáng khắp hai gian quán trà”. Ánh sáng ấy không làm cho ngôi nhà ấm lên, hay sáng thêm mà chỉ làm cho nó chìm ngập sâu hơn vào bóng tối đang phủ dày xung quanh, khiến sự trầm lắng có chiều sâu và hoàn cảnh buồn bã thê thảm hơn. “Ngoài đường, trời tối om và hết sức vắng”, lão đi vừa với tràn trề hi vọng, vừa nơm nớp lo cho gói bạc cồm cộm trong túi. Lão đi đến nơi sẽ có phương thuốc diệu kì chữa bệnh cho con lão, phương thuốc được truyền khẩu trong dân gian song không phải ai cũng biết, kể cả lão Hoa. Thời gian dịch chuyển dần sang “Trời cũng sáng dần và đường cũng càng lâu càng rõ” và lão cũng đến được nơi lão cần đến: một ngã ba đường nơi có “một cửa hiệu còn đóng kín mít”. Thời gian ban ngày tạo điều kiện cho nhiều người tụ họp bàn bạc nhiều chuyện trong xã hội. Đồng thời là thời gian để mọi người bắt đầu một ngày mới, là điều kiện thuận lợi chữa trị bệnh tật cho Thuyên. Thời gian ban ngày tạo điều kiện ổn định với tâm trạng nhân vật, các nhân vật có điều kiện giao tiếp, trao đổi tư tường tình cảm cho nhau. Cũng từ đó tạo điều kiện thích hợp cho vợ chồng lão Hoa Thuyên thêm những hi vọng. Thời gian này là thời gian một chiều vận động từ sáng sớm tới lúc mặt trời lên cao. Điều ấy tạo cho các sự kiện vận động một cách hợp lí.
Thời gian dịch chuyển từ thu sang xuân: “một đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi, nhưng mặt trời chưa mọc” sang Tiết Thanh minh năm ấy, trời lạnh lắm. Nhũng cây dương liễu mới đâm ra được những mầm non bằng nửa hạt gạo”. Buổi sáng của không gian thứ nhất thuộc về mùa thu, mùa của sự tàn tạ, héo hon, của sự buồn bã chia li, còn buổi sáng của không gian thứ hai gắn với mùa xuân, mùa của sự sống trỗi dậy, mùa của sự sinh sôi nảy nở, cho dù trong không gian thứ hai có hình ảnh cành cây khô trụi lá, nhưng “những cây dương liễu” đã “đâm ra được những mầm non bằng nửa hạt gạo”. Sự dịch chuyển thời gian này góp phần thể hiện tư tưởng của nhà văn Sự chuyển đổi các không gian theo mùa tạo ra ý tưởng về sự phát triển đi lên, tạo ra niềm tin và khơi dậy niềm lạc quan tin tưởng, tạo ra ấn tượng về sự thay đổi cuộc đời mang tính chất chu kì “bĩ cực thái lai” của truyền thống tâm thức Trung Hoa.
4.                  Thi pháp không gian nghệ thuật:
Truyện được xây dựng trong một bối cảnh không gian khá dung dị. Đó là một quán trà nghèo nàn, một con đường mòn và một khu nghĩa địa ảm đạm, lạnh lẽo.
Một quán trà nghèo nàn, ồn ào vào ban ngày, lặng lẽ về đêm. Khác với những phòng trà sang trọng là nơi lui tới của tầng lớp thượng lưu, thì quán nhỏ của vợ chồng lão Hoa Thuyên là nơi tụ họp của phần đông những người bình dân - quần chúng lao động. Họ đến đây vừa để uống trà, vừa để gặp gỡ bạn bè, đồng thời cũng để bàn chuyện phiếm giết thời gian… Tại nơi đây đã diễn ra một cuộc bàn luận sôi nổi xoay quanh hai vấn đề: Một là, chuyện lão Hoa Thuyên may mắn mua được “thần dược” về chữa bệnh lao cho con; và hai là, chuyện Hạ Du bị chém chết.
Một nghĩa địa dày khít “lớp này lớp khác như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ” với một con đường mòn mờ ảo, ngăn chia nghĩa địa người chết chém với người nghèo như một cái lệch lạc về những người cách mạng. Nhà văn miêu tả nghĩa địa với một không gian vô cùng ảm đảm và lạnh lẽo, bao trùm lên không gian hẹp ấy có 2 người đàn bà và một con quạ là vật thể sống. Không gian được Lỗ Tấn miêu tả đi từ ngoài vào trong, đầu tiên nhà văn miêu tả nghĩa địa là 1 miếng đất ở phía Tây thành ở giữa miếng đất đó là con đường mòn nhỏ hẹp cong queo….. Con đường mòn là gianh giới của các loại người trong xã hội. Con đường mòn là biểu tượng cho một tập quán xấu đã trở thành thói quen. Hai bà mẹ đã bước qua con đường mòn để đến gặp nhau vì đồng cảm ở tình thương con  sâu sắc. Nghĩa địa chia thành hai phần bên trái là nghĩa địa dành cho người chết chém, tử tù;  bên phải là nơi chôn những người nghèo. Khi bà Hoa bên nấm mồ con trai bà vào buổi sớm, không gian bao trùm lên người đàn bà già nua lúc này có lẽ vô cùng lạnh leo, cô đơn. Nó lạnh lẽo không chỉ bởi tiết trời, bởi không gian rờn rợn trong khu nghĩa địa dày khít những nầm mô như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ, nó còn lạnh lẽo có lẽ bởi Thuyên là câu con trai duy nhất của bà. Giờ đây khi ngồi trước mộ con mình, khi chỉ có 1 mình bà trong khu nghĩa địa thì bà có lẽ cũng cảm thấy cô đơn và lạnh lẽo vô cùng.  Sau đó mẹ Hạ Du xuất hiện, nghĩa địa lúc này là tràn ngập không khí đau buồn của bà mẹ Hạ Du. Không gian bao trùm lên 2 người đàn bà càng trở lên tĩnh mịch, lặng lẽ hơn: “ Gió đã tắt. Nhũng ngọn cỏ khô đứng thẳng tắp như những sợi dây đồng. Một tiếng rên rỉ run run đưa lên giữa không trung, nhỏ dần, nhỏ dần, rồi tắt hẳn. Xung quanh vắng lặng như tờ. Hai bà già đứng giữa đám cỏ khô, ngước mắt nhìn con quạ. Con quạ vẫn đậu trên cành khô trụi lá, rụt cổ lại, im lìm như đúc bằng sắt”.
Hình ảnh con đường trong tác phẩm góp phần tạo nên nét đặc sắc về không gian nghệ thuật của truyện. Qua việc miêu tả không gian con đường vào hai thời điểm mùa thu và mùa xuân có nét khác biệt và góp phần truyền tải những dụng ý nghệ thuật của Lỗ Tấn.
Trước tiên, tác giả miêu tả con đường vào thời điểm mùa thu, mùa của sự tàn úa, rụng rời hay nó gắn liền với thời kỳ đen tối của xã hội phong kiến Trung Hoa lúc bấy giờ. Lão Hoa đã đi trên con đường đó với niềm tin chiếc bánh bao tẩm máu có thể chữa khỏi bệnh cho con lão. Lão đi giữa con đường tối om và hết sức vắng. Chỉ mặt đường xam xám là trông rõ. Đó là con đường mờ mờ ảo ảo, con đường với bước chân của những con người hoạt động không chính đáng. Con đường lang láng màu xám vắng vẻ, lạnh lẽo cho ta thấy việc lão Hoa Thuyên ra đường lúc này là lúc những người bình thường chẳng ai đi cả. Không gian con đường góp phần làm cho người đọc thấy được những hành động kỳ lạ của lão Hoa Thuyên. Để đến được pháp trường vào lúc sáng sớm, lão phải bước đi trên con đường trong đêm tối một mình, duy chỉ chiếc đèn lồng lão cầm trên tay để soi đường chiếu thẳng vào chân lão bước đều. Con đương vắng vẻ, dường như không hấp dẫn người đi đường thậm chí gặp vài con chó nhưng chẳng con nào buồn sủa, vậy mà điều gì khiến lão bước đều như vậy? khiến lão cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và cho phép thần thông cải tử hoàn sinh. Lão bước những bước thật dài” để mau đến nơi cần đến hơn.
Đến ngã ba đường - nơi thường đông đúc người qua lại, lão gặp những điều kỳ lạ, những con người kỳ dị, làm cho lão có cảm giác ghê rợn và lạnh lẽo. Con đường là nơi diễn ra cảnh mua bánh đẫm máu người, cái cảnh giằng co, xô đẩy, bát nháo còn hơn trong những khu chợ buổi sáng. Tất cả họ thi nhau mua bằng được bánh bao tẩm máu người. Cho thấy sự ngu muội của quần chúng nhân dân, chứng tỏ sự ngu muội này không chỉ riêng lão Hoa Thuyên mà đại đa số nhân dân Trung Hoa lúc bấy giờ. Nếu như ngã ba đường là nơi mọi người tranh nhau mua bán đắt đỏ thì đõ cũng là nơi diễn ra cái chết của một con người đầy bi kịch. Hạ Du dũng cảm xả thân vì đại nghĩa nhưng lại đơn độc giữa một quần chúng u mê, cái chết của anh là món lợi cho nhiều người. Có lẽ quần chúng chưa hiểu cách mạng, còn người làm cách mạng lại xa rời quần chúng. Mùa xuân năm sau, không gian con đường lại xuất hiện nơi nghĩa địa - đó là cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa những người chết chém và chết tù, ở về phía tay trái, và nghĩa địa những người nghèo ở bên tay phải. Con đường là sự phân cách của hai khu nghĩa địa do con người tạo nên. Hay chính những người Trung Hoa tự chia rẽ mình. Con đường mòn là sự ngăn cách giữa những nấm mồ người dân nghèo Trung Hoa lúc bấy giờ và những nấm mồ người tham gia cách mạng bị chém hoặc chết tù. Nó như là khoảng cách vừa hữu hình vừa vô hình giữa quần chúng và cách mạng. Khi bà Hoa bước qua con đường mòn  sang trò truyện với mẹ Hạ Du, ranh giói con đường bị xoá nhoà bởi tấm lòng đồng cảm của hai người mẹ, hay cách mạng và quần chúng xích lại gần nhau hơn. Câu chuyện kết thúc với niềm lạc quan vào ngày mai của đất nước Trung Hoa.
Không gian truyện có ý nghĩa điển hình cho không gian của xã hội Trung Quốc ngột ngạt, tăm tối, buồn tẻ, đang ngủ say trước sự chuyển mình của nhân loại. Tuy nhiên, điều mà tác giả đem đến cho người đọc lại không phải là tư tưởng bi quan mà là niềm tin hướng về ngày mai - người cách mạng và quần chúng nhân dân đòan kết chiến đấu vì lợi ích chung.
5.                  Thi pháp ngôn từ nghệ thuật
Một điểm đặc sắc của thi pháp truyện ngắn Thuốc là giọng kể và điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Thuốc được kể theo sự luân phiên của hai điểm nhìn trần thuật: điểm nhìn của nhân vật người kể chuyện hàm ẩn và điểm nhìn của nhân vật Cả Khang. Người kể chuyện hàm ẩn dấu mặt, quan sát và kể lại cho độc giả nghe câu chuyện về lão Hoa Thuyên mê muội. Nhưng dưới điểm nhìn của người kể chuyện hàm ẩn, chúng ta chỉ biết là máu của người tù bị chết chém chứ chưa biết cụ thể là ai. Bí mật về người tử tù được bảo lưu trong mạch truyện gieo vào lòng người đọc sự tò mò. Tiếp đó tác giả di chuyển điểm nhìn từ người kể chuyện hàm ẩn sang nhân vật Cả Khang. Cả  Khang kể chuyện chiến sĩ cách mạng Hạ Du. Kết thúc tác phẩm, tác giả lại chuyển cái nhìn cho người kể chuyện hàm ẩn. Sự luân phiên giữa hai điểm nhìn trần thuật này đã tạo nên kết cấu “truyện trong truyện”, có thể dồn nén một dung lượng lớn trong khuôn khổ truyện ngắn. Tác phẩm nhờ đó vừa nói được sự u mê, tăm tối của người dân, vừa nói được bi kịch của người làm cách mạng xa rời quần chúng. Hai mạch truyện đã khéo lồng ghép, vận động để dẫn tới sự hi vọng ở đoạn kết. Chính sự luân phiên hai điểm nhìn trần thuật đã tạo nên tính đa thanh phức điệu.
Người kể chuyện đứng ngoài theo dõi diễn biến truyện, người đọc không hề thấy phát ngôn của người kể chuyện mà chủ yếu là ngôn ngữ của các nhân vật. Thế nhưng, Lỗ Tấn sáng tác với mục đích góp phần thức tỉnh quốc dân, ông muốn gào thét lên để đánh thức, lay tỉnh đồng bào đang ngủ mê nên dù tác giả cố tỏ ra lạnh lùng nhưng người đọc vẫn nhận ra những phản ứng mạnh mẽ. Thái độ không đồng tình về một bộ phận quần chúng có tư tưởng cơ hội chủ nghĩa, tư lợi khi đồng hành cùng lão Thuyên ra pháp trường: Lão lại giật mình, trố mắt nhìn. Có mấy người đi qua. Một người còn quay đầu lại nhìn lão. Lão không trông rõ là ai, nhung thấy ánh mắt cú vọ ngời lên, như người đói lâu ngày thấy cơm.”. Đau đớn, phẫn uất trước sự hiếu kì đến lạnh lùng, tàn nhẫn khi xem đồng loại mình bị hành hình, cứ như là đi xem hội “Người nào người nấy dướn cổ ra như cổ vịt bị một bàn tay vô hình nắm lấy xách lên. Im lặng một lát. Bỗng hình như có tiếng động. Rồi cả đám xô đẩy nhau ào ào, lùi về phía sau đến chỗ lão đứng, chen lão suýt nữa ngã.”. Nỗi ngậm ngùi, nghẹn ngào, xót xa khi theo gót mẹ Hạ Du ra thăm mộ con Miếng đất dọc chân thành phía ngoài cửa Tây vốn là đất công. Ở giữa có con đường mòn nhỏ hẹp, cong queo, do những người hay đi tắt giẫm mãi thành đường. Đó cũng lại là cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa những người chết chém hoặc chết tù, ở về phía tay trái, và nghĩa địa những người nghèo ở phía tay phải. Cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ.”. Tưởng chừng tác giả khách quan, dửng dưng trước các sự việc nhưng tác giả có mặt khắp nơi để quan sát, lắng nghe, bình phẩm, suy tư. Đó là một trong những đặc điểm thi pháp Lỗ Tấn: bình dị mà thâm thúy, thâm thúy mà nhẹ nhàng, trầm lắng, sâu xa.
Nhan đề của tác phẩm và hình ảnh chiếc bánh bao khiến người đọc suy nghĩ mới hiểu hết các tầng nghĩa và nội dung, tư tưởng của nó. Thuốc không chỉ là phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao tẩm máu người. Đây là một phương thuốc mê tín lạc hậu tương tự như hai vị thuốc mà ông thầy lang đã bốc cho cho bố Lỗ Tấn để chữa bệnh phù thủng là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái dẫn đến cái chết của ông cụ. Thuốc còn là phương thuốc để chữa bệnh tinh thần: căn bệnh gia trưởng, căn bệnh u mê lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc. Bố mẹ thằng Thuyên vì lạc hậu và gia trưởng đã áp đặt cho nó một phương thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu người dẫn đến cái chết của nó. Rồi tất cả đám người trong quán trà cũng sai lầm như vậy. Chiếc bánh bao tẩm máu vô hại kia đã trở thành một thứ thuốc độc vì người ta quá tin vào nó mà không lo tìm một thứ thuốc khác. Chiếc bánh bao tẩm máu người là phương thuốc nhằm chữa căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính trị của người dân Trung Quốc và căn bệnh xa rời quần chúng của người cách mạng Trung Quốc thời bấy giờ. Máu để tẩm chiếc bánh bao là dòng máu người chiến sĩ cánh mạng Hạ Du đã đổ xuống để giải phóng cho nhân dân. Thế mà nhân dân lại u mê cho anh là làm giặc, là thằng điên và mua máu anh để tẩm bánh bánh bao. Còn Hạ Du làm cách mạng cứu nước, cứu dân mà lại quá xa rời quần chúng để nhân dân không hiểu anh đã đành mà mẹ anh cũng không hiểu (đỏ mặt xấu hổ khi thăm mộ con gặp bà Hoa) còn chú anh thì tố cáo cháu để lấy tiền thưởng. Nhan đề truyện và hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người đã thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm: Lỗ Tấn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại: nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt” còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.
Lỗ Tấn chú ý dùng những câu văn ngắn gọn để có thể gợi mở suy nghĩ. Câu hỏi “thế này là thế nào?”khi thấy trên nấm mộ con mình một vòng hoa là một câu hỏi đột ngột, gieo vào tâm trí người đọc một âm vang, bắt ta phải suy nghĩ để trả lời.

C.     KẾT LUẬN
Lỗ Tấn là tên tuổi vĩ đại của văn học Trung Quốc thế kỷ XX. Ông là một trong số không nhiều các tác gia truyện ngắn trên thế giới có tài hấp dẫn độc giả bao thế hệ. Sức lỗi cuốn của truyện ngắn Lỗ Tấn được tạo nên bởi sự kết hợp nhiều yếu tố. Thi pháp Lỗ Tấn tạo nên nét độc đáo, thú vị của những trang truyện ngắn Lỗ Tấn, góp tiếng nói khẳng định chỗ đứng vững chắc của nhà văn trên văn đàn Trung Quốc và thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.                  Mấy vấn đề thi pháp Lỗ Tấn và việc giảng dạy Lỗ Tấn trong trường phổ thông, GS. Lương Duy Thứ, NXB. Đại học sư phạm, 2004.
2.                  Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, Nxb ĐHQG Hà Nội, 1997.
3.                  Giáo trình Thi pháp học, Nguyễn Hoa Bằng, Đại học Cần Thơ.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét