Thứ Ba, 7 tháng 5, 2013

VẤN ĐỀ DẠY HỌC LÀM VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY - Thành Được - k18

A. VẤN ĐỀ DẠY HỌC LÀM VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY
 Dạy làm văn là dạy học sinh (Hs) tạo lập văn bản, rèn luyện khả năng quan sát phản ánh cuộc sống và thói quen tư duy ngôn ngữ cấp cao. Để tạo lập được một văn bản hoàn chỉnh cả về nội dung và hình thức, Hs phải có vốn từ ngữ, nắm vững ngữ pháp văn bản để kết hợp các từ ngữ tạo lập câu rồi đến đoạn văn và cuối cùng là văn bản hoàn chỉnh. Quá trình tạo lập trên đòi hỏi kĩ năng và năng lực tư duy cao của Hs. Năng lực và kĩ năng này phải được chú ý xây dựng từ nhỏ. Nếu bị gián đoạn ở một giai đoạn nào đó thì khó có thể xây dựng lại và tiêu tốn nhiều thời gian. Hơn nữa, đa phần Hs của chúng ta yếu về từ ngữ và ngữ pháp, hệ lụy của nó là kém về viết đoạn văn và tạo lập văn bản.
 Vì vậy, khi dạy làm văn cho Hs, chúng ta vừa phải cũng cố kiến thức cũ vừa dạy kiến thức mới nên không đủ thời gian và gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai ý đồ dạy học vì kiến thức nền của Hs sinh không có. Do đó, làm thế nào để có thể dạy Hs sinh tạo lập văn bản hoàn chỉnh về nội dung và hình thức đang là vấn đề đặt ra và được nhiều sự quan tâm của tất cả mọi người. Chúng tôi xin áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong dạy làm văn sau đây mong là sẽ giúp ích cho việc dạy học văn trong nhà trường.
 1. NHẬN ĐỊNH TÌNH HÌNH DẠY HỌC LÀM VĂN HIỆN NAY
 1.1 Ưu điểm
 -   Giáo viên (Gv) tích hợp liên hệ ba phân môn với nhau, giúp học xong bài sau có thể ôn lại bài trước, ứng dụng kiến thức vừa học ở bài mới vào bài đã học.
 -   Cơ sở vật chất phát triển, công nghệ thông tin đã được giáo viên được áp dụng nhiều hơn trong dạy làm văn.
 -   Phần đánh giá đã được người dạy chú ý thay đổi cho phù hợp, đánh giá thường xuyên nhiều hơn, quan tâm đến kĩ năng lập luận của Hs dù còn chưa trọn vẹn.
 -   Chương trình học ngày càng hệ thống hơn, khoa học hơn.
 1.2 Hạn chế
 -   Tính khoa học của các niệm, các bài học còn hạn chế. Sự không thống nhất các khái niệm, không nêu rõ các bước thực hiện một công việc, còn nhằm lẫn kiến thức qui trình với kiến thức thông báo, phân tích nhận diện văn bản với tạo lập văn bản.
 -   Giáo viên dạy lý thuyết (nhận diện kiểu bài), dạy phân tích đề, lập dàn ý, cho thực hành mà không chú ý đến rèn luyện kĩ năng viết cho người học, không đưa ra cách làm cụ thể từng bước khiến học sinh không thể viết hoặc chỉ viết theo khuôn mẫu.
 -  Phương pháp dạy chủ yếu: diễn giảng, thầy làm nhiều + phát vấn, ít chú trọng thực hành, ít khi cho Hs đọc lại bài, chỉnh sửa (lẫn nhau, tự chỉnh sửa). Không cho Hs viết đoạn, đốt cháy giai đoạn.
 -  Cách đánh giá còn nhiều hạn chế: chỉ đánh giá định kì ít đánh giá thường xuyên, ít chú trọng giờ trả bài và chỉ lỗi sai cho Hs sửa, chấm bài còn chủ quan cảm tính và chủ yếu đánh giá kiến thức (tìm ý để chấm) hơn là đánh giá kĩ năng (chấm tổng thể, cách lập luận), không chú ý đánh giá cảm xúc chính kiến của người viết. Dẫn đến việc Hs học lệch, lập luận không đúng hay không có kĩ năng lập luận à Năng lực tư duy, năng lực tạo lập văn bản không hình thành và phát triển.
 2. MỤC TIÊU ỨNG DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC LÀM VĂN
 2.1 Dạy học làm văn
 Dạy làm văn là dạy nhận thức cuộc sống, phản ánh cuộc sống bằng các phương thức biểu đạt thông qua năng lực quan sát, cảm nhận của bản thân. Dạy các em thể hiện tâm tư tình cảm trước các hiện tượng đời sống. Đó chính là dạy cách viết cho các em, cụ thể là dạy tạo lập văn bản. Khi dạy làm văn cần xác định rõ viết để học hay học để viết. Lâu nay ta hay cho Hs viết trước rồi qua đó rút ra cái để học. Như vậy Hs khó có thể viết được, bởi các em không nắm được cách viết phương pháp viết thì tất yếu viết không tốt, có chăng chỉ là viết theo cảm hứng, tùy tiện không hệ thống, logic. Thực tế viết khác với học cách viết. Viết là phối hợp nhiều hành động, kỹ năng. Hs không thể cùng lúc viết và học cách viết thông qua thực hành được. Do đó, chúng ta phải dạy cho Hs cách viết tức là học để viết rồi mới cho các em viết thì hiệu quả sẽ cao.

  2.2 Mục tiêu ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực trong dạy làm văn
 Mục tiêu chúng tôi hướng đến là giúp Hs rèn luyện kĩ năng tạo lập các loại văn bản phục vụ học tập và cuộc sống. Giúp Hs đổi mới cách thức tiếp cận, cách phản ánh cuộc sống theo hướng tích cực dựa vào năng lực cảm thụ, năng lực viết của học sinh. Dạy học sinh “nói thật” theo suy nghĩ cảm nhận chân thật của mình. Hướng cho  Hs định hướng bài  viết, lập dàn  ý  bài viết  trước khi viết  bài hoàn  chỉnh đảm bảo tính hệ thống cho văn bản. Khắc phục hạn chế SGK ở chổ không đưa ra các bước, các thao tác cụ thể để làm một bài văn hoàn chỉnh. Nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ, rèn luyện kĩ năng giao tiếp, tạo lập văn bản theo đúng đặc trưng từng kiểu văn bản. Phát triển các năng lực quan sát, tưởng tượng, sáng tạo cho Hs. Từng bước hình thành năng lực lập luận, tư duy: phân tích, tổng hợp, so sánh, phê phán, đánh giá, chứng minh, phản hồi. Tuy nhiên, không phải nói như thế nghĩa là làm được tất cả như thế trong một thời gian ngắn, chỉ cần làm được một phần là xem như đã thành công.
 3. QUI TRÌNH DẠY HỌC LÀM VĂN
 3.1 Cơ sở thực hiện dạy học làm văn bằng phương pháp tích cực
 Qua thực tế dạy học làm văn hiện nay cho thấy, chúng ta cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy, hướng vào năng lực tự tạo lập và sáng tạo của học Hs. Giúp các em nắm được cách thức tạo lập văn bản, biết lập dàn ý trước khi viết.
 Chúng ta đang trên đà đổi mới dạy và học theo hướng tích cực, thay đổi phương pháp và cách thức đánh giá, nâng cao vai trò tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của Hs. Như vậy, chúng ta phải khơi gợi, hướng dẫn người học khám phá kiến thức, tạo điều kiện cho các em sáng tạo kiến thức, chủ động trong việc tìm ra kiến thức. Để đáp ứng yêu cầu đó, chúng ta phải thay đổi phương pháp dạy theo hướng tích cực, áp dụng các kĩ thuật mới trong dạy học giúp Hs hứng thú hơn nữa trong giờ học.
 3.2 Các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học làm văn
 Các phương pháp chúng tôi giới thiệu ở đây là dựa vào bài giảng dạy học làm văn của PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Nam và một số bài viết của các tác giả trong và ngoài nước viết về việc dạy học làm văn, đăng tải trên các tạp chí Khoa học công nghệ. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiếp thu và vận dụng vào việc dạy học làm văn trong nhà trường.

  3.2.1.1 Qui trình thực hiện
 - Viết như một phương tiện giao tiếp, viết để người khác đọc. Khi dạy Hs viết nên hoán đổi vai trò của Hs từ người viết sang người đọc và ngược lại. Khi người viết và người đọc trao đổi vai trò sẽ có nhóm quan sát để quan sát hoạt động trao đổi vai trò đó. Nhóm quan sát sẽ quan sát hoạt động của người viết người đọc, sự tương tác của người viết - người đọc để học tập cách viết và nhìn nhận bài viết của mình dưới góc

độ khác (người đọc). Nghĩa là sẽ có 3 nhóm tất cả cùng tham gia hoạt động trao đổi vai trò trong tiến trình viết.
 3.2.1.2 Cách thức tiến hành
 - Trong hoạt động viết người viết cần:
 +  Đứng trên quan điểm của người viết: Viết là một tiến trình nhận thức và tiến trình xã hội: ba hoạt động tư duy tiến hành đồng loạt trong quá trình viết là viết để làm gì, viết như thế nào, người đọc sẽ tiếp nhận ra sao. 
 +    Đứng  trên  quan  điểm  của  người  đọc:  đọc  lại  bài  viết  của  mình  với  tư  thế  người

đọc. Hiểu suy nghĩ và cảm nhận của người khác, có thể họ có cách nhìn vấn đề khác bản thân mình. Suy nghĩ theo cách của người khác để có những điều khác biệt giúp viết tốt hơn.
 -   Cá nhân: Viết bài, sau đó mô tả và phân tích quá trình thực hiện bằng cách tái tạo tiến trình viết của mình, đọc bài của mình với vai trò người đọc, trải nghiệm hiệu quả của bài viết đối với người đọc, đối chiếu với tiêu chí đánh giá để chỉnh sửa.
 -   Hoạt động nhóm:
+   Nhóm đôi (10’): Trao đổi bài, đọc bài viết của bạn. Đối chiếu tiêu chí đánh giá, chỉnh sửa giúp bạn.
 +   Nhóm đôi (5’): Trao đổi với bạn về bài viết của bạn.
 -   Các nhóm viết – chỉnh sửa rồi hoán đổi vai trò cho nhau. Chỉ có hoán đổi nhiều vai trò người học sẽ tương tác và nhận ra cái sai, cái chưa đúng để sửa lại. Nhờ tác

động của bạn và của chính mình để hoàn thiện bài viết.
 3.2.1.3 Mục đích sử dụng
 Giúp Hs học được cách viết từ việc quan sát người khác thực hiện hoạt động viết. Khi đứng ở nhiều góc độ khía cạnh Hs sẽ có cái nhìn toàn diện về bài viết của mình để điều chỉnh cho hoàn thiện. Hs sinh có thể tự đánh giá bài làm của mình, thói quen tư duy và kinh nghiệm thực hiện sẽ hình thành dần dần.
 3.2.2 Phương pháp chỉnh sửa
 Chỉnh sửa nghĩa là thực hiện các thay đổi vào bất kì thời điểm nào trong quá trình viết. Nhận ra sự chênh lệch giữa cái định viết và cái đã viết, đưa ra những quyết định cái gì sẽ sửa cái gì nên sửa và sửa như thế nào. Tiến trình sửa chữa bao gồm các hoạt động: đánh giá, chọn lựa cách chỉnh sửa.
 3.2.2.1 Qui trình thực hiện
 -   Chỉnh sửa là một hoạt động phức tạp, gồm các kiến thức về ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ. Hai cấp độ của chỉnh sửa là chỉnh sửa về ngữ nghĩa và chỉnh sửa về hình thức.
 -   Bốn mức độ chỉnh sửa bài:
 +   Chỉnh sửa bài văn dự kiến: ta đã thể hiện đúng ý tưởng dự định hay chưa?
 +   Chỉnh sử hình thức của từng phần bài đã viết: ngữ pháp, chính tả đã đúng chưa?
 +   Chỉnh sửa ý nghĩa của từng phần bài đã viết: từng phần có nội dung ý nghĩa đúng ý đồ của mình ban đầu hay chưa?
 + Chỉnh sửa ý nghĩa của toàn bài đã viết: liệu ý nghĩa của toàn bài viết có phù hợp với sự hình dung ban đầu về bài viết? Các câu, các phần có cấu trúc nhất quán với cấu trúc toàn bài hay chưa?
 3.2.2.2 Cách thức tiến hành
 - Giáo viên đưa ra tiêu chí để chỉnh sửa cho một bài văn cụ thể. Cho Hs làm bài. Sau đó cho chỉnh sửa cá nhân trước theo các tiêu chí, rồi đến trao đổi bài từng đôi một để chỉnh sửa. Sau đó hoàn thiện bài viết của mình sau khi đã được bạn chỉnh sửa. Chia nhóm từng đôi một thực hiện chỉnh sửa theo các tiêu chí. Có thể thiết kế phiếu chỉnh sửa cho Hs chỉnh sửa. Bổ sung thêm các bài tập chỉnh sửa trong chương trình.

3.2.2.3 Mục đích sử dụng
 - Dù cẩn thận hay khéo léo đên đâu, Hs cũng sẽ có những lỗi trong khi viết văn. Vì vậy mà hoạt động chỉnh sửa là rất cần thiết. Trước nay ta chỉ cho Hs tự chỉnh sửa rồi nộp bài. Thực tế Hs có chỉnh sửa hay không, chỉnh sửa thế nào Gv cũng không biết. Do đó, cho các em tự chỉnh sửa rồi, chỉnh sửa lẫn nhau thì sẽ phát hiện lỗi sai để các em sửa lại, người dạy có thể kiểm tra được việc chỉnh sửa của các em để góp ý cho các em hoàn thiện bài.
 - Tạo cơ hội cho Hs hình thành năng lực cảm nhận, phê bình, trình bày quan điểm và lập luận để lí giải các vấn đề văn học.
 3.2.3 Phương pháp viết nháp
 Viết nháp là hướng dẫn học sinh viết nhiều lần trên phiếu tìm ý hay sắp xếp ý. Khi bản nháp chưa thể hiện ý tưởng rõ ràng, Gv đặt câu hỏi giúp Hs điều chỉnh, hướng vào nội dung của đề bài. Khuyến khích Hs ghi ra bất kì ý tưởng nào, sau đó chọn lọc, sắp xếp lại. Cho Hs thảo luận nhóm điền/vẽ sơ đồ ý tưởng, tư duy. Cho Hs đọc lại tự chỉnh sửa. Tổ chức nhóm thảo luận, trao đổi vai trò người đọc – người viết để tiếp tục đóng góp ý kiến cho bài viết.
 3.2.3.1 Qui trình thực hiện
 Qui trình viết nháp có các giai đoạn sau:
-  Gđ 1. Động não: Cho Hs chọn những chủ đề mà Hs yêu thích, thảo luận với bạn kế bên về chủ đề đó.
-   Gđ 2. Lập dàn ý: phát thảo một số ý chính sẽ viết.
-   Gđ 3. Viết nháp theo dàn ý (có thể viết nhiều hơn 1 lần)
-   Gđ 4. Đọc lại với bạn: trao đổi bản nháp với bạn, nhận xét dựa trên tiêu chí đánh giá của nhóm. Trao đổi với bạn về những điểm mạnh yếu trong bài viết của bạn.
-  Gđ 5. Tự chỉnh sửa: so sánh nhận xét của mình với của bạn, quyết định những chổ cần chỉnh sửa trên tiêu chí tự đánh giá.
 3.2.3.2 Cách thức tiến hành
 -   Viết nháp theo kiểu lập kế hoạch: người viết hình dung đầy đủ về viết cái gì trước khi cầm bút viết.
 -   Viết mang tính giao tiếp: người viết suy nghĩ cái cần viết và vừa viết vừa chỉnh sửa qua nhiều bản nháp.
 +   Chỉnh sửa mang tính bên trong: đọc lại bài viết từ góc độ của chính người viết.
 +   Chỉnh sửa mang tính bên ngoài: đọc lại từ góc độ của độc giả.
 Như vậy những người học viết theo kiểu lập kế hoạch ít chỉnh sửa hơn những người viết theo kiểu giao tiếp.
 3.2.3.3 Mục đích sử dụng
 Cho Hs thực hiện thao tác viết nhiều lần qua các bản nháp. Sau mỗi bản nháp Hs sẽ nhận ra cái hay cái chưa hay, thấy được sự tiến bộ của mình trong từng bản nháp. Sử dụng kết hợp với việc chỉnh sửa thì hiệu quả văn bản sẽ cao hơn.
 3.2.4 Phương pháp quan sát
 Từ lâu, quan sát luôn là yếu tố đầu tiên trong quá trình tạo lập các văn bản. Từ thực tiễn quan sát được, người sáng tác học tập được nhiều điều và tư duy tạo ra những văn bản. Do vậy, quan sát cũng rất cần thiết trong dạy học làm văn.
 3.2.4.1 Qui trình thực hiện
 Sau khi ra đề và chia nhóm, tiến hành thực hiện.
 Nhóm viết: Thảo luận và nói lên những gì mình suy nghĩ (nói to). Trình bày trên Poster.
 Nhóm quan sát: Lắng nghe, nhận xét cách lập dàn ý, sản phẩm của nhóm viết, thái độ thảo luận của các thành viên.

           Các nhóm thảo luận kết quả đạt được, rút ra bài học cho mình.
Vậy, trong quá trình quan sát, những cố gắng nhận thức của nhóm quan sát chuyển từ việc thực hiện nhiệm vụ viết sang việc học cách viết của những người khác (tập trung vào nhiệm vụ học không bị chi phối bởi nhiệm vụ viết). Như vậy nhóm quan sát sẽ viết tốt hơn nhóm viết. Khi quan sát người quan sát sẽ tái khái quát hóa tiến trình viết: gồm mấy giai đoạn, cách viết…. Bên cạnh là tái đánh giá: những kinh nghiệm nào tốt/ không tốt ta có thể học/ tránh.
3.2.4.2 Cách thức tiến hành
 Viết là hoạt động có yêu cầu mức độ nhận thức cao và phức tạp, nhiều khi gây khó khăn cho Hs vì các em phải vừa viết vừa học cách viết.

   Thực hiện: Cho một đề làm văn. Chia nhóm lớp. Chọn một nhóm làm mẫu tức là nhóm viết, các nhóm còn lại là nhóm quan sát. Nhóm viết (làm mẫu): tiến hành giải quyết đề văn trên theo trình tự đã được học như: tìm hiểu đề, tìm ý, dàn ý, … Thảo luận cách viết bài cụ thể, vừa viết vừa nói to suy nghĩ của mình cho các nhóm khác nghe thấy. Trong khi đó, nhóm quan sát thì quan sát nhóm viết, nhận xét về cách viết bài của nhóm viết: điều gì tốt, điều gì chưa tốt. Rồi thực hiện hoạt dộng viết với đề bài khác.
 Qua việt quan sát, Hs sẽ học tập được cách viết bài, rút kinh nghiệm khi quan sát để viết bài của mình tốt hơn. Tuy nhiên cần chia nhóm đồng đều không quá giỏi cũng không quá yếu.
 3.2.4.3 Mục đích sử dụng
 Sử phương pháp quan sát giúp người học nhận biết rõ hoạt động viết diễn ra như thế nào, tập trung để ghi nhớ cách viết, cách làm, học được nhiều kinh nghiệm từ nhóm viết (làm mẫu). Khi nhận ra quá trình viết, hình dung được quá trình viết sẽ giúp Hs viết tốt. Tuy niên cũng cần kết hợp với các phương pháp khác thì hiệu quả mới cao.
 3.2.5 Phương pháp phân tích mẫu
 Là phương pháp dựa trên cơ sở phân tích những mẫu chuẩn từ đó rút ra lý thuyết, kinh nghiệm cho người học. Cần phân biệt sao chép theo mẫu với học theo mẫu. Học theo mẫu là học cách thức, phương pháp làm một cách có ý thức từ một mẫu xác định. Nhờ mẫu chuẩn mà người học định hình trong đầu mình cách làm cách viết, từ đó viết sáng tạo dựa trên bộ khung có sẵn từ mẫu.
 3.2.5.1 Qui trình thực hiện
 Mẫu được chọn phải có những tiêu chuẩn nhất định. Mẫu phải chứa đựng các đặc trưng cơ bản của tri thức mới (khái niệm/kĩ năng) cần hình thành, gắn với thực tiễn cuộc sống. Mẫu phải ngắn gọn, được sử dụng nhiều, nội dung lành mạnh, bảo

đảm tính giáo dục. Tuy nhiên mẫu có thể tốt hoặc chưa tốt để Hs phân tích, đánh giá. Các bước thực hiện:
 B1: Hướng dẫn Hs phân tích mẫu, rút ra nhận xét về đặc điểm của mẫu.
 B2: Yêu cầu Hs rút ra lý thuyết, các bước thực hiện công việc, cách làm.
 B3: Cho Hs thực hành từng bước
 B4: Cho Hs thực hành nhiều lần, toàn bộ các bước.
 3.2.5.2 Cách thức tiến hành
 Đưa ra tiêu chí cho mẫu, chọn mẫu thích hợp. Chia nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm. Các nhóm thảo luận, rút ra bài học kinh nghiệm. Cho các nhóm trình bài. Nhóm khác so sánh và đánh giá hiệu quả đạt được.

 3.2.5.3 Mục đích sử dụng
Sử dụng phương pháp này giúp Hs sinh học tập cách thức tiến hành, các bước làm bài. Thông qua mẫu để hình thành ý tưởng về khung nền cho bài viết. Các

ý tưởng khác sẽ hình thành sau đó. Khi đã được thấy cách làm, phương pháp làm, có mẫu để học theo thì hiệu quả làm bài sẽ cao. Cần khuyến khích các em sáng tạo ý tưởng từ mẫu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét