Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

BÓNG ANH HÙNG ( Doãn Dũng) - nhóm Tùng, Mai, Linh, Tuấn,...

   PHẦN MỞ ĐẦU
                                                            -------------

       Đã gần bốn mươi năm, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã lui vào dĩ vãng, nhưng dư âm của cuộc chiến ấy vẫn còn dai dẳng đến hôm nay và còn có thể còn rất lâu nữa. Chiến thắng huy hoàng của ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đánh đổi bằng sinh mạng của hàng triệu người lính nói riêng, người dân Việt Nam nói chung. Nhưng dù là người chiến thắng hay kẻ chiến bại, tất cả đều phải chịu nhiều mất mát đau thương. Gần bốn mươi năm sau cuộc chiến, chúng ta có đủ thời gian và sự bình tâm để nhìn lại nhiều điều mà gần bốn thập kỷ trước, trong men say của người chiến thắng, ta đã chưa nhìn thấy được.
      Hòa trong dòng chảy của văn học thời kỳ Đổi mới, truyện ngắn Bóng anh hùng của tác giả Doãn Dũng sẽ như một lát cắt giúp chúng ta có một cái nhìn đa chiều hơn về cuộc chiến tranh tàn khốc ấy. Đây là một truyện ngắn gây nhiều tranh cãi trong thời gian không xa. Và đó cũng là điều bình thường và rất nên có đối với một tác phẩm văn học nghệ thuật.

                                                         PHẦN NỘI DUNG
                                                          -----------------
       I . TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
           1. Vài nét về tác giả
              - Doãn Dũng tên thật là Nguyễn Vũ Anh, sinh năm 1971 tại Hà Nội. Cử nhân Luật Nghề nghiệp hiện tại: vừa kinh doanh thời trang vừa sáng tác văn chương. Doãn Dũng có truyện in trên Văn nghệ, Văn nghệ quân đội.
               - Tác phẩm đã in: Mùi cá tươi, Những kẻ xa lạ, Bạn chiến đấu, Những câu chuyện buồn, Những vòng đòng ký ức, Bóng anh hùng, Sau súng, Ở nơi không tiếng súng, Chuyện vỉa hè, Bạn tha phương, Roi đời.
         2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh sáng tác.
                 Truyện ngắn “Bóng anh hùng” được Doãn Dũng sáng tác vào năm 2009 ở trại viết Tam Đảo và được đăng lần đầu tiên trên báo văn nghệ và Ðại Biểu Nhân Dân với cái tên “Hồi quang”. Ba năm sau đó, truyện ngắn này được đăng lại trên báo Phú Yên với tên “Bóng anh hùng”.
          2.2. Tóm tắt tác phẩm
            Truyện được kể lại bởi hồn ma của nhân vật chính: Nguyễn Quyết Thắng, một chiến sĩ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ trông coi kho thuốc nổ.
    Theo lời kể, trước đây, nhà anh chỉ có hai mẹ con sống trong «một căn hộ bé xíu». Mẹ anh làm công tác xã hội ở phường. Bố anh đã hy sinh ở chiến trường B.
    Từ nhỏ, Thắng đã được mẹ đối xử rất nghiêm khắc : Anh «ao ước» có một cái bô để đi vệ sinh để ban đêm khỏi phải sợ ma khi đi nhà vệ sinh tập thể. Nhưng mẹ không mua vì bà muốn rèn luyện anh « thành một người đàn ông mạnh mẽ». Anh thuộc diện chính sách, được miễn đi bộ đội nhưng bà vẫn đăng kí cho anh nhập ngũ vì sợ con trai «ở nhà lêu lỏng rồi lại hư mất» dù cho Thắng có van nài «Mẹ cho con thi đại học một năm nữa». Đêm giao thừa, anh trốn về nhà. Sáng sớm mồng một Tết, bà bảo con trở về đơn vị và đích thân bà đưa con trở lại. Những điều ấy làm cho Thắng rất đỗi buồn giận mẹ mình. Đến nỗi, khi đã là một hồn ma, anh cũng không chịu trở về thăm nhà.
    Chiến tranh kết thúc, mẹ anh tìm đến nơi con trai hy sinh để mong tìm lại hài cốt nhưng không tìm được. Một thời gian sau, nhờ một người có khả năng ngoại cảm chỉ dẫn, những người trong đội tìm kiếm đã tìm thấy hài cốt của Thắng và một chiến sĩ khác. Khi nhìn thấy mảnh giấy có ghi tên tuổi, quê quán, đơn vị trong mớ hài cốt là của con trai mình, mẹ anh đau đớn «bế từng khúc xương tôi vào lòng»
    Thắng được mẹ mang về an nghỉ ở quê nhà, nằm cạnh bố anh. Một thời gian sau, mẹ anh cũng mất. Bà nằm cạnh chồng và con trai.
   II. NHỮNG Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ VỀ TÁC PHẨM
       Truyện ngắn “Bóng anh hùng” được Doãn Dũng sáng tác vào năm 2009 ở trại viết Tam Đảo và được đăng lần đầu tiên trên báo văn nghệ và Ðại Biểu Nhân Dân với cái tên “Hồi quang”. Ba năm sau đó, truyện ngắn này được đăng lại trên báo Phú Yên với tên “Bóng anh hùng”. Và lần đăng này, tác phẩm đã thu hút sự chú ý của đông đảo độc giả bởi một vài ý kiến phát pháo đầu tiên về nội dung của tác phẩm, châm ngòi cho một cuộc tranh luận sôi nổi trên diễn đàn báo chí, văn nghệ trong cả nước. “Bóng anh hùng” trở thành một sự kiện văn học trong năm 2012-2013 với rất nhiều ý kiến phê bình, đánh giá của nhiều bộ phận trí thức: từ người đọc cho đến giới báo chí, các lãnh đạo ban ngành có liên quan, từ những nhà văn, nhà thơ cho đến giới phê bình, nghiên cứu. Trong giới hạn của bài tập này, nhóm chúng tôi xin tập hợp và điểm qua những ý kiến đánh giá về truyện ngắn “Bóng anh hùng” và tạm phân chia những ý kiến ấy thành các nhóm sau: những ý kiến đánh giá chung về tác phẩm, những ý kiến đánh giá cụ thể về các phương diện nội dung, nghệ thuật
1. Những ý kiến đánh giá chung:
            Trước hết là một số ý kiến đánh giá được tập hợp trong bài “Bóng anh hùng khốn khổ bởi kiểu đọc quy chụp” được đăng trên trang báo mạng tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Van-hoc/538825/bong-anh-hung-khon-kho-boi-kieu-doc-quy-chup.html.
Ngay sau khi đăng trên báo Phú Yên, thường trực Tỉnh ủy Phú Yên nhận được nhiều ý kiến, đơn thư của các ông Vũ Văn Thoại - nguyên trưởng Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên, Nguyễn Tường Thuật - nguyên chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên và các cán bộ hưu trí, cựu chiến binh: Trần Hành Chính, Huỳnh Cửu, Nguyễn Tiến Lẫm... có chung quan điểm cho rằng truyện ngắn Bóng anh hùng là “độc hại, phản động và cần phải xử lý những người cho đăng truyện này lên báo tỉnh.
Cũng trong bài viết này, tác giả đã trích dẫn nhận định của ông Vũ Văn Thoại về tác phẩm: "Một người không còn khả năng nhìn thấy ánh sáng nữa, nhưng khi con cháu họ đọc tác phẩm Bóng anh hùng thì không ai không thấy rằng đây là tác phẩm cực kỳ độc hại, cực kỳ phản động. Tui nói hồi xưa, chiến tranh, nếu đọc cái này thì đem cắt cổ".
Đồng ý kiến trên, Nguyễn Tường Thuật cũng có gửi ý kiến tham gia cho rằng tổng biên tập báo Phú Yên nên có lời xin lỗi các mẹ VN anh hùng và gia đình liệt sĩ vì cái "Bóng anh hùng" kỳ dị đã làm tổn thương họ và xử lý kỷ luật những người dưới quyền có liên quan.
Ngược lại với những ý kiến trên là những ý kiến nhận định đây là một tác phẩm hay và có giá trị. Cũng trong bài viết Bóng anh hùng khốn khổ bởi kiểu đọc quy chụp, tác giả đã tập hợp những ý kiến trái chiều, công nhận giá trị của tác phẩm. Trước hết là ý kiến của  tổng biên tập báo Phú Yên: "Ðây là một tác phẩm tốt, tuy nhiên khi đăng đã không lường được còn có những phản ứng trái chiều gay gắt của một số độc giả dẫn đến tạo dư luận không tốt”. Kế đến là ý kiến của cơ quan chuyên môn (Hội Nhà văn VN), Ban Tuyên giáo trung ương: “Truyện ngắn này không có gì đặc biệt và sai phạm về nội dung và hình thức. Truyện đề cập đến tình yêu của người mẹ, tuy có phần khắc nghiệt nhưng ẩn giấu trong đó là tình yêu, là ý thức trách nhiệm của một công dân đối với Tổ quốc”.
Nhà văn Nguyễn Trí Huân - phó chủ tịch Hội Nhà văn VN, tổng biên tập báo Văn Nghệ, tờ báo đã đăng truyện ngắn Bóng anh hùng vào năm 2009 với cái tên Hồi quang cũng đánh giá “truyện ngắn Bóng anh hùng hay Hồi quang là một truyện ngắn có chất lượng”.
            Ngoài ra, trang web Hội nhà văn TP HCM cũng đã có nhiều bài viết quy tụ những tiếng nói của các nhà văn, nhà phê bình có tên tuổi để nhận định về giá trị của tác phẩm và phản bác lại kiểu đọc “quy chụp”, suy diễn lệch lạc nội dung tác phẩm. Sau đây là ý kiến của Hoàng Đình Quang- nhà văn từng mặc áo lính: “Đó là một truyện ngắn hay, nếu người viết văn nào chưa đọc thì cũng là tiếc. Nó hay ở nhân vật bà mẹ. Một bà mẹ được chồng chất lên đó thành hai, ba bà mẹ. Và thông điệp ngoài văn bản của Bóng anh hùng là: sau những cuộc chiến như thế, sự gắn kết xã hội đang dần dà lỏng lẻo”. Đồng ý kiến trên, nhà văn Nguyễn Thúy Ái cũng nhận định “Bóng anh hùng của tác giả Doãn Dũng là một truyện ngắn hay, đặc biệt là giá trị hiện thực của tác phẩm”.
            Và kết quả khảo sát ý kiến phản hồi của bạn đọc trên báo Tuổi trẻ đã khẳng định một lần nữa cho giá trị của tác phẩm: Trong số 198 phản hồi của bạn đọc gửi về tòa soạn có đến 183 ý kiến cho rằng Bóng anh hùngtruyện ngắn hay, xúc động, sâu sắc, làm lay động lòng người. Nhiều bạn đọc cho biết họ đã đọc đi đọc lại truyện này nhiều lần nhưng lần nào đọc cũng trào nước mắt... (Bài Sự hi sinh cao cả của bà mẹ Việt Nam đăng trên báo tuoitre.vn/ban-doc/24/03/2013  )
 2. Những ý kiến đánh giá cụ thể các mặt của tác phẩm:
2.1. Nội dung
            Đánh giá về nội dung của truyện, trước hết, các ý kiến đều có chung nhận định về cách mới mẻ trong việc triển khai đề tài khá quen thuộc của văn học- đề tài người lính trong chiến tranh: “Tác giả đã cố gắng thoát khỏi cách viết khuôn sáo quen thuộc để đề cập, ca ngợi phẩm chất của một người mẹ yêu con, thương con, nhưng cao hơn cả là tình yêu Tổ quốc, trách nhiệm đối với Tổ quốc. Và tình yêu có vẻ khắc nghiệt của người mẹ đã đánh thức ý thức của người con, hóa giải dần những hiểu lầm của người con đối với mẹ. Một truyện ngắn cảm động, mới mẻ khi đề cập đến chiến tranh cũng như văn học viết về chiến tranh (Nhà văn Nguyễn Trí Huân - phó chủ tịch Hội Nhà văn VN, bài Bóng anh hùng khốn khổ vởi kiểu đọc quy chụp, tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Van-hoc )
            Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên cũng nhận xét, truyện ngắn là một cách viết khác về đề tài người lính trong chiến tranh. “Chiến tranh có những sự thật trần trụi, khắc nghiệt mà càng được nói ra chân thật và chân thật thì càng giúp hiểu được cuộc chiến và người lính tham chiến. Như trong truyện ngắn này, việc người thanh niên thành lính và việc người lính hi sinh là những sự thật đó. Chàng trai có thể được hoãn vào lính nhưng khi đã nhập ngũ thì anh không thoái thác, không bỏ trốn. Cái chết của người lính trong chiến tranh không phải bao giờ cũng anh hùng, hiểu theo nghĩa là chết trên trận tiền, giữa hòn tên mũi đạn”. (Bài Trọng một cách viết, trách một cách đọc, http://nhavantphcm.com.vn/doc-duong-van-hoc, Nguyễn Thế Thanh)
            Một số ý kiến khác nhìn nhận ở giá trị nhân văn mà tác phẩm mang lại. Huỳnh Như Ngân - phó giám đốc Sở Thông tin - truyền thông Phú Yên - nói rằng lúc đầu đọc truyện thấy ám ảnh khó chịu, nhưng càng đọc thì thấy tính nhân văn của tác phẩm. "Tính nhân văn ở chỗ mọi bà mẹ, mọi người cha, người anh có người thân hi sinh đều mong muốn cuối cùng người thân mình có mồ yên mả đẹp, nếu không tìm được là nỗi băn khoăn day dứt". (Bóng anh hùng khốn khổ bởi kiểu đọc quy chụp, tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Van-hoc).
Nguyễn Thế Thanh trong bài “Trọng một cách viết, trách một cách đọc” (http://nhavantphcm.com.vn/doc-duong-van-hoc) cũng nhận xét: “Tràn ngập trong từng trang truyện là niềm xúc động về cách thể hiện tình yêu mà người mẹ và cũng là người vợ liệt sĩ dành cho con trai duy nhất của mình”.
Về nội dung tác phẩm, Nguyễn Thế Thanh cho rằng: “Câu chuyện của một hồn ma chiến binh còn rất trẻ, lại là đứa con duy nhất của một gia đình liệt sĩ, đã lay động mạnh trái tim tôi và kéo tôi đi một mạch đến dòng cuối cùng. Không một chi tiết nào của truyện gợi lên “sự khinh miệt”, “sự phỉ báng”, “sự đớn hèn. (Bài Ồn ào dư luận ‘Bóng anh hùng’ là phản động, http://vnmedia.vn/VN/van-hoa/tin-tuc/) .
Nhà phê bình Đoàn Lê Giang (TP.HCM) cũng có những nhận định về nội dung và các nhân vật trong truyện: Đọc truyện Bóng anh hùng của nhà văn Doãn Dũng, người ta có thể cảm nhận được ngay đây là một câu chuyện nói về người mẹ anh hùng - anh hùng nhưng bình dị như rất nhiều bà mẹ Việt Nam khác. Bà đã nén nỗi đau riêng để hiến dâng đứa con dứt ruột đẻ ra của mình cho Tổ quốc….Người con trai không thật cứng rắn, dũng cảm, nhưng anh đã sống và chết xứng đáng với mẹ mình. Đây là một câu chuyện hay và lạ về lỏng yêu nước, sự hy sinh của những con người bình thường đã tận hiến mình cho dân tộc.
2.2. Nghệ thuật
Các ý kiến đánh giá không chỉ công nhận giá trị nội dung của tác phẩm mà còn đề cao những đặc sắc nghệ thuật mà truyện ngắn đã đạt được. Đánh giá tài năng nghệ thuật của Doãn Dũng trong Bóng anh hùng, nhiều người công nhận anh có “cách viết độc đáo về chiến tranh” (Nguyễn Thế Thanh). Hơn nữa, nhà văn Nguyễn Thúy Ái (TP.HCM) còn cho rằng Doãn Dũng đã làm được một việc thật đáng khâm phục, đó là “Miêu tả được nỗi đau, những khuất lấp, hy sinh của những con người không còn lên tiếng được nữa là điều không dễ”.
Ngoài ra, còn nhiều ý kiến bàn về những phương diện nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm như cốt truyện, nghệ thuật kể/dẫn truyện, xây dựng hình tượng, lựa chọn chi tiết nghệ thuật, ngôn ngữ…Trước hết, về cốt truyện, TS Nguyễn Thành Quang - nguyên bí thư Tỉnh ủy Phú Yên - cho rằng: “cốt truyện Bóng anh hùng cảm động, đọc xúc động. Tôi có nghe báo này báo kia đăng không sao, nhưng báoPhú Yên đăng thì bị quở trách. Tôi không phán xét rằng chuyện đó đúng hay sai nhưng với tư cách là một độc giả, nhận thức, cảm nhận tác phẩm này, tôi thấy trong truyện người mẹ không tự xưng là anh hùng mà chính người đọc tôn vinh bà mẹ là một bà mẹ anh hùng chứ không có gì phỉ báng cả" - ông Quang nhận định.(tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Van-hoc/538825/bong-anh-hung-khon-kho-boi-kieu-doc-quy-chup.html)
Về nghệ thuật kể chuyện, Phạm Xuân Nguyên nhận định: “Tác giả Doãn Dũng dùng lời hồn ma của người lính dẫn truyện. Hình thức này không mới… Cái hay của Doãn Dũng ở thiên truyện này là người kể chuyện/dẫn truyện đứng từ vị trí hồn ma đã giúp tác giả thể hiện gọn mà sâu cả nhân vật người mẹ. Ở bề sau câu chữ là nỗi đau của cả mẹ và con, của cả gia đình người lính. Không ai muốn thành anh hùng và bà mẹ anh hùng, nhưng khi Tổ quốc cần họ dám biết hi sinh. Chỉ hai câu nói của hồn ma cha với hồn ma con ở cuối truyện đã đủ cho người đọc hiểu về người mẹ và đồng cảm xót xa”.
Về nghệ thuật xây dựng hình tượng, Phan Phú Yên có nhận xét: “Tập truyện Bóng anh hùng không phải là một thử nghiệm của Doãn Dũng mà tác giả thực sự muốn mang đến cho độc giả cái nhìn hoàn toàn nghiêm túc về việc xây dựng hình tượng người cầm súng trong chiến tranh”.
Bên cạnh đó, Phan Phú Yên cũng công nhận tài năng của Doãn Dũng tong việc lựa chọn chi tiết nghệ thuật đắt giá cho tác phẩm: “Truyện của Doãn Dũng viết rất sắc xảo, chi tiết lựa chọn đắt giá và trong những trang viết ấy, sự hài hước luôn được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, mang lại những giá trị cả về nghệ thuật lẫn cảm xúc một cách vừa vặn, tinh tế. Doãn Dũng viết về thân phận người lính trong thời chiến và thời bình, với một lối văn hiện thực truyền thống, chính xác, gọn gàng, nhưng cũng hết sức sống động. Đặc biệt, không khí trong truyện của Doãn Dũng luôn sắc lạnh, nghiệt ngã, trần trụi, làm người đọc không thể trốn đi đâu được, buộc phải đối diện với những sự thật phũ phàng...”
Về ngôn ngữ, Phan Phú Yên cũng có nhận xét về lối văn “không cầu kỳ nhưng cực kỳ cẩn thận trong việc sử dụng ngôn ngữ, lối diễn đạt chất chứa nhiều cảm xúc song không hề dễ dãi, giản đơn, Doãn Dũng đã mang đến không gian trải nghiệm sách thực sự cho mọi độc giả.”
Tóm lại, trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy có hai luồng ý kiến khác nhau, thậm chí là trái chiều về truyện ngắn này. Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng đây là tác phẩm phản động, độc hại. Nhóm ý kiến thứ hai cho rằng, đây là một tác phẩm hay, đặc sắc không có vấn đề gì sai phạm về nội dung tư tưởng. Trong tiến trình đọc và khảo sát truyện ngắn này, chúng tôi cũng nhận thấy rằng, dây là một truyện ngắn đặc sắc, có giá trị về nhiều mặt. Tuy nhiên, đây là một tác phẩm mới, được viết theo bút pháp hiện thực huyền ảo (Doãn Dũng tâm sự), có nhiều chi tiết thực hư lẫn lộn. Điều đó đòi hỏi người đọc phải đọc thật nghiêm túc, nghiền ngẫm từng chi tiết của tác phẩm và hơn nữa là cần một trình độ đọc tương ứng để có thể có cách hiểu sâu sắc về ý nghĩa tác phẩm cũng như thông điệp mà nhà văn gửi gắm.
III. Ý KIẾN, ĐÁNH GIÁ CỦA CHÚNG TÔI VỀ TÁC PHẨM
1. Nhan đề “ Bóng anh hùng”
        - Bóng là ảo ảnh nó tồn tại nhờ vào vật thật, và mang hình dạng của vật thật. Chính vì vậy, bóng không thể cầm, nắm hay sờ vào được.
        - Bóng anh hùng: Nhân vật chỉ là cái bóng của những người anh hùng thật sự. Tiếng tăm, những chiến công, sự hi sinh dũng cảm của những người anh hùng thực thụ đã bao trùm lên tất cả những ai lên đường nhập ngũ và hi sinh trên chiến trường. Và dù ra chiến trường với sự ép buộc của người mẹ và sự hi sinh dù “nhạt toẹt” nhưng họ vẫn nghiễm nhiên trở thành những người anh hùng trong lòng dân tộc.
Ở đây tác giả Doãn Dũng đặt ra vấn đề: không phải bất cứ người chiến sĩ nào tham gia vào các cuộc kháng chiến bảo vệ  quê hương đất nước cũng đều là những vị anh hùng, đều là những người vì nước quên thân. Trong số những con người cao cả ấy vẫn có một bộ phận những người phải tham gia nhập ngũ vì sự ép buộc gay gắt của gia đình. Điều này dẫn đến những cái chết vô cớ chứ bản thân họ chưa làm được gì cho quê hương, đất nước dù là trong ý nghĩ.
2. Đề tài
       Bóng anh hùng (2009) là một truyện ngắn khai thác đề tài chiến tranh, về thân phận con người trong cuộc chiến khốc liệt chống đế quốc Mỹ xâm lược.
3. Chủ đề tư tưởng
       Bấy lâu nay, khi nhìn nhận về những người lính hy sinh trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, xu hướng chung là cảm hứng ngợi ca từ góc nhìn của những người còn sống. Vì vậy, không tránh khỏi sự chủ quan, áp đặt. Ở Bóng anh hùng, tác giả Doãn Dũng đã đưa ra một điểm mới trong việc nhìn nhận, đánh giá về sự hy sinh của những người lính. Một cách nhìn táo bạo, chân thật, trái chiều với cách nhìn quen thuộc bấy lâu nay: cách nhìn của người trong cuộc, của một người lính đã ngã xuống về cuộc chiến, về đồng đội, về gia đình mình.
      Tác phẩm không đặt ra một vấn đề tư tưởng gì lớn lao, nhưng lại chưa đựng một tư tưởng nhân văn sâu sắc. Đó là, cái nhìn chân thật, sâu sắc và nhân bản về chiến tranh. Mối đồng cảm lẫn xót xa về thân phận con người trong cuộc chiến.
4. Các nhân vật trong truyện
a. Nhân vật người mẹ trong truyện
          Nhìn chung có nhiều ý kiến khác nhau bàn về người mẹ trong tác phẩm, trong đó có hai ý kiến trái ngược nhau.
Thứ nhất là, nhìn người mẹ này theo hướng trách móc.
Thứ hai là, nhìn người mẹ này theo hướng là một “bà mẹ anh hùng”.
            Chúng tôi đồng tình với hướng nhìn thứ hai. Đó là chúng tôi đồng tình với ý kiến của các nhà văn sau: Nhà văn  Hoàng Đình Quang, nhà văn Nguyễn Trí Huân - phó chủ tịch Hội Nhà văn VN, Huỳnh Như Ngân - phó giám đốc Sở Thông tin - truyền thông Phú Yên, Nguyễn Thế Thanh, Nhà phê bình Đoàn Lê Giang (TP.HCM), và chúng tôi cũng có  ý kiến riêng về hình ảnh người mẹ trong truyện này như sau:
 Theo chúng tôi đây là người mẹ mang đậm mẫu “người mẹ anh hùng”, khi nhìn người mẹ này ở nhiều góc độ khác nhau.
             Trước hết chúng tôi nhìn người mẹ này ở góc độ là một công dân đối với tổ quốc, thì người mẹ này là một công dân tốt, luôn ý thức về trách nhiệm của một công dân đối với tổ quốc. Khi đứa con trai trưởng thành bà đã đăng kí nghĩa vụ quân sự cho con để con mình thực hiện nghĩa vụ của một người công dân là phải bảo vệ đất nước. Người mẹ này đã hy sinh tình riêng của mình vì quyền lợi chung của tổ quốc. Rõ ràng, khi chúng ta xét ở góc độ này thì bà là một công dân luôn làm tròn nghĩa vụ của mình đối với đất nước. Bởi vì khi đất nước có chiến tranh thì trách nhiệm của một công dân là phải cống hiến, hy sinh những gì thuộc về cá nhân để phục vụ cho lí tưởng chung của đất nước. Bà mẹ trong truyện đã thực hiện đúng nhiệm vụ đó và thực hiện một cách rất hoàn hảo.
            Một góc độ khác mà ta có thể nhìn nhận nơi người mẹ này là góc độ một cán bộ luôn ý thức phục vụ quần chúng nhân dân. Bà luôn tận tụy, nhiệt tình, năng nổ và tâm huyết với công tác xã hội. Bà là một tuyên truyền viên luôn hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, biết quan tâm đến quần chúng. Xét ở góc độ này chúng ta thấy bà là một cán bộ biết hy sinh quyền lợi cá nhân phục vụ cho lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội.
            Ở góc độ thứ ba, đó là góc độ của một người mẹ, một người vợ trong gia đình. Với chức vụ là một người mẹ, bà là một người mẹ gương mẫu có ý thức cao và nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, bà luôn ý thức giáo dục con trai mình trở thành người tự lập, mạnh mẽ, sống có ích cho xã hội, phải sống có tổ chức, phải có trách nhiệm của một công dân đối với đất nước. Với chức vụ là một người vợ, bà là một người vợ đam đang, chung thủy, mạnh mẽ, quyết đoán, luôn làm tròn trách nhiệm của một người vợ đối với chồng như tổ chức lễ giỗ cho chồng, cúng chồng, thay thế chồng nuôi con khôn lớn …  khi chồng đã hy sinh.
            Như vậy hình ảnh người mẹ trong truyện là hình ảnh của một “người mẹ anh hùng” . Đó là một người biết ý thức trách nhiệm công dân của mình đối với tổ quốc,  là một cán bộ gương mẫu phục vụ cho quyền lợi của quần chúng, là một người mẹ nghiêm khắc và có ý thức cao trong việc giáo dục con cái, là một người vợ luôn giữ trọn trách nhiệm của mình đối với chồng. Đây là một người mẹ gương mẫu, mẫu người của “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”
b. Ý kiến khác về nhân vật người mẹ trong truyện.
            Về nhân vật người mẹ: Từ bao đời nay, người mẹ luôn là một nguồn cảm hứng bất tận của văn chương, bất kể nơi đâu trên trái đất này. Hình ảnh người mẹ trong văn học hiện lên ngời sáng bởi một tình yêu thương con vô bờ bến, sẵn sàng hy sinh tính mạng mình vì con. Nhưng người mẹ trong Bóng anh hùng khiến người đọc vừa thấy đáng trách và đáng thương. Trong thời chiến, việc ra trận có nghĩa là lành ít dữ nhiều, ra đi nhưng khó có ngày trở về. Mặc dù chỉ có đứa con duy nhất, dù chồng bà là liệt sĩ, có nghĩa là đứa con bà thuộc diện chính sách khỏi nhập ngũ, nhưng bà mẹ ấy vẫn lạnh lùng đăng ký cho đứa con trai nhập ngũ, bất chấp sự nài nỉ “Mẹ cho con thi đại học một năm nữa”. Với lý do “Ở nhà lêu lỏng rồi lại hư mất”, bà đã đưa con trai mình vào quân ngũ. Thử hỏi, có bà mẹ nào trên trái đất này hành xử với con trai ruột duy nhất của mình như người mẹ này hay không? Dẫu biết rằng đất nước đang rất cần những người trai lên đường ra trận để đánh đuổi ngoại xâm, nhưng nếu có một thêm người như con trai bà thì vẫn là chưa đủ, vắng anh ta cũng là không thiếu. Đây không phải là trường hợp duy nhất mà người mẹ này xử sự với con mình. Còn nhớ, khi đứa con còn nhỏ, nhà ở tập thể, phải xài nhà vệ sinh chung. Những lúc như vậy, đứa con trai “phải thường xuyên tè dầm dọc đường vì sợ ma”, nó “ao ước có một cái bô”, nhưng người mẹ thì không chiều theo vì muốn “rèn luyện tôi thành một người đàn ông mạnh mẽ”. Sau vài ngày nhập ngũ, đứa con bỏ trốn, trở về nhà ngay đêm giao thừa. Bà mẹ gặp con trở về, lạnh lùng hỏi: “Bỏ ngũ hả?”. Không lời hỏi han, không lời động viên, chia sẻ, bốn giờ sáng ngày mồng một Tết, bà lay con dậy: “Thắng, dậy đi cho sớm”. Bà và con đèo nhau trên chiếc xe đạp cũ kỹ. Đến đơn vị, bàn giao đứa con cho chỉ huy rồi sáng hôm sau, “mẹ nhất quyết đòi về, chả ai can được mẹ”. Người mẹ thật cứng rắn với con đến độ nhẫn tâm, tàn nhẫn. Điều gì đã khiến người mẹ ấy đối xử với con trai mình lạnh lùng như vậy? Phải chăng thời đại đã tạo nên tính cách con người. Cái thời đại Miền Bắc đang xây dựng CNXH, đang làm nhiệm phụ “hậu phương lớn” cho “tiền tuyến lớn” Miền Nam đòi hỏi phải hy sinh những cái riêng tư. Người mẹ này đã làm tốt ý thức công dân của mình. Nhưng dưới góc độ gia đình, tình thương của mẹ cho con thì bà đã phạm một sai lầm lớn. Người mẹ này đã sống quá lý trí, lý trí đến độ vô cảm, vô tình. Lý tưởng chính trị ở bà đã lấn át bản năng làm mẹ, một điều hết sức cao đẹp, một điều khiến người mẹ trở thành bất tử trong trái tim con mình.
c. Nhân vật người con trong truyện
Nhìn nhận đánh giá nhân vật người con ở ba góc độ:
Góc độ 1: Nhìn dưới cái nhìn của chủ nghĩa nhân văn: Đây là câu chuyện của một người con trong một gia đình liệt sĩ neo đơn và cũng là chuyện của một người chiến sĩ đã hy sinh trong trận càn của giặc. Nhân vật hiện lên trong tác phẩm với hình hài của một “con ma” và nói lên bao suy nghĩ, nỗi lòng của mình. Đó là những tâm sự rất thật của một đứa con khao khát tình cảm gia đình, khát khao cuộc sống tự do của tuổi trẻ. Một nguyện vọng hết sức chính đáng của một thanh thiếu niên khi rời khỏi trường phổ thông không may thi rớt đại học “Mẹ cho con thi đại học một năm nữa”. Lời khẩn cầu ấy được thốt lên khi anh hay tin “mẹ đăng ký cho con nhập ngũ đợt này” và cái lí do bà đưa ra cũng không được thuyết phục lắm “Ở nhà lêu lổng rồi lại hư mất”. Người con đã van xin mẹ có cơ hội “thi đại học” lần nữa. Thiết nghĩ đây cũng là một nhiệm vụ hết sức lớn lao của một công dân đối với đất nước. Nghĩa vụ có nhiều cách thể hiện không nhất thiết phải “nhập ngũ” mới làm nghĩa vụ. Khi đã học đại học rồi anh đem vốn kiến thức đó để phục vụ cho quân đội, thì cái cống hiến đó hơn gấp nhiều lần cái cống hiến bằng xương máu. Nhưng vốn là một đứa con hiếu thảo, ngoan ngoãn biết vâng lời mẹ, anh đã ra đi trong sự “ngậm ngùi” xót xa vì trong anh vẫn còn nỗi trăn trở “Nhà mình thuộc diện chính sách. Sao con phải đi? Và hình ảnh của mẹ trong ngày anh nhập ngũ đã để lại trong anh một người mẹ “xa lạ vô cùng” bởi mẹ quá quan cách “Chúc đồng chí chân cứng đá mềm, hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc” và “Tôi không dám nhìn mẹ, tôi cúi đầu xuống lí nhí câu cảm ơn”.Thật xót xa, đau đớn, mẹ ơi, tại sao mẹ lại lạnh lùng đến như vậy, xa lạ đến như vậy? ngày anh lên đường, anh khao khát được mẹ đưa tiễn nhưng người mẹ ấy đã đi làm nhiệm vụ thiêng liêng của mình “bà phải đi hòa giải cho một đôi vợ chồng muốn ly dị”Anh đành “ngậm ngùi”lên đường khi không  được gặp mẹ.
Đó là lúc anh lên đường nhập ngũ còn khi “trốn đơn vị về ăn Tết” vào đêm 30 sau khi đã vượt “một chặng đường dài trốn tránh lực lượng kiểm soát quân sự”anh đã được về lại mái nhà thân yêu, ấm cúng của bao năm tuổi thơ đầy kỉ niệm. Những tưởng sẽ được ăn tết bên mẹ, được sà vào lòng mẹ như ngày còn thơ bé. Được ăn cùng mẹ những buổi cơm gia đình đầm ấm. Nào ngờ, “khoảng bốn giờ sáng, mẹ lay tôi dậy đi cho sớm” vì bà biết anh “bỏ ngũ” và lòng người mẹ ấy, lại cũng lạnh lùng “Về đơn vị, mẹ sẽ đi cùng con” Anh đã  “ấm ức vô cùng” với cái quyết định quá ư sắt đá của mẹ nhưng anh “không dám trái lệnh mẹ” cũng bởi vì anh vốn quen nghe lời mẹ. Đến nỗi, không có xe bà đã quyết định đèo con lên đơn vị ngay lúc ấy. Trong anh diễn ra một sự xót xa nhưng thấu hiểu, anh đã thấy “ánh đèn đường phản chiếu trên gò má mẹ, trong một giọt nước đang lăn xuống”Tại sao mẹ lại làm như thế, mẹ lạnh lùng, sắt đá đến vô cảm. Trong lòng anh ngỗn ngang trăm mối, anh không hiểu mẹ, anh trách mẹ tôi đã chết vì mẹ mình. Chính mẹ đã đưa tôi đến thế giới lạ lùng này”. Chính mẹ đã cướp đi của anh bao ước mơ, bao khát vọng của tuổi học trò. Anh khao khát được cảm giác như đôi tình nhân về muộn trong đêm giao thừa ấy, anh khao khát cuộc sống tự do bên mẹ, có mẹ. Thiết nghĩ, đây cũng là khao khát hết sức chính đáng của một chàng trai mới lớn. Trong anh, chưa có một ý thức gì về nghĩa vụ đối với đất nước. Anh cũng không có một lí tưởng gì cao cả. Chỉ ước mơ được đi học đại học, được như mọi người trai khác trong thời đại của mình. Anh chính là hình ảnh của một người con thời hiện đại: khao khát được học hành nâng cao trình độ, khao khát mái ấm gia đình, khao khát tình yêu tuổi trẻ... Những khao khát ấy hết sức “người” và cũng hết sức nhân văn. Đáng lí, anh phải được hưởng những điều như vậy, vì cha anh đã làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước rồi, anh lại là con của một gia đình có công. Với lại anh là đứa con duy nhất của một gia đình neo đơn của một bà mẹ “tuyệt vời” hết mình, hết lòng vì dân, vì nước.
Góc độ 2: Dưới cái nhìn bi kịch của một người chiến sĩ khát khao cống hiến. Tuy anh chưa có một lí tưởng gì cho công cuộc bảo vệ đất nước ngay lúc mẹ đăng lính. Nhưng khi anh đã bước chân vào quân ngũ, như mọi người lính trên chiến trường đều mong muốn cái hy sinh của mình sẽ là cái hy sinh oanh liệt hào hùng để lại tiếng thơm muôn đời. Cái sự hy sinh ấy phải thật xứng đáng, và thật lính trận. Thế nên càng xót xa, cay đắng hơn với cái chết của anh. Một cái chết “ nhạt toẹt” (theo anh) cái chết ấy đã kết thúc cuộc đời của một thanh niên tràn đầy sinh lực. Cái chết mà anh cho là vô nghĩa và nhạt nhẽo ấy không mang đến cho anh niềm tự hào mà ngược lại đó là nỗi ray rứt đầy nuối tiếc cho thân phận người lính. Anh cảm thấy cái chết “nhạt toẹt” ấy kết thúc một cuộc đời cũng vô cùng nhạt nhẽo của anh. Cuộc đời của một người lính chỉ có những chuỗi ngày ngắn ngủi và mờ nhạt như thế sao? Hình như anh vẫn không cam tâm chấp nhận một sự kết thúc như vậy. Một cái chết “không anh dũng, cũng chẳng hèn nhát”, cái chết của những người được bình đẳng trong cái tên gọi “anh hùng liệt sĩ” ở thế giới bên kia khi họ được qui tụ về đây. Nơi được xem là điểm hẹn của những “quần hùng”. Ở đây, anh đã có dịp nhìn lại chính mình và anh nhận ra một điều “trong thế giới của chúng tôi, không phải ai cũng là anh hùng, không phải ai cũng đến thế giới này bằng cái chết oanh liệt”. Và “tất cả đều được đối xử bình đẳng. Có lẽ đó là điều dễ chịu nhất mà chúng tôi có thể tự hào về thế giới của mình” Vâng, điều đó đã an ủi anh, đã giúp anh tiếp tục tồn tại trong thế giới của mình với cái “tự hào” không thực. Dù sao đi nữa, cuộc đời anh cũng có ý nghĩa đối với đất nước. Cái chết ấy cũng là một cái chết có ý nghĩa, tuy không xông pha trước làn tên mũi đạn của kẻ thù nhưng cái chết thầm lặng ấy đã góp thêm chiến công cho công cuộc bảo vệ đất nước của dân tộc. Anh chết trong khi làm nhiệm vụ không phải là cái chết “nhạt toẹt” được!
Góc độ 3: Dưới cái nhìn bi kịch của một đứa con khao khát tình mẫu tử với cái lí tưởng cống hiến hết mình của một bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Đây có thể là bi kịch lớn nhất và cũng là bi kịch xuyên suốt đối với nhân vật này. Ngay từ khi mẹ tự ý đăng lính cho anh, khi mẹ đèo anh trên chiếc xe đạp cà tàng trở về đơn vị ngay sáng mùng 1 tết trong tiếng khóc nức nở của anh. Và bi kịch đó lại tiếp tục và thể hiện rõ nhất khi anh đã hy sinh. Trong ngày về thăm nhà đầu tiên anh đã vô cùng thất vọng và “xót xa, chạnh lòng”“Mẹ không có nhà. Mâm cơm cúng tôi đã nguội ngắt. Hương cháy rụi đến chân. Đồ cúng không có tiền vàng, không có quần áo mới. Tôi đang phải mặc chiếc áo bị hơi nổ xé rách như tổ đỉa nhiều năm nay” Trong ngày giỗ của con, mà hương khói lại như thế ư? Đồ cúng, cơm cúng con lại như vậy sao? Còn mẹ, mẹ đang ở nơi đâu? Mẹ đang làm gì? Tại sao, có thể có một người mẹ vô tâm, tàn nhẫn với con ruột của mình đến thế sao? Nên vẫn không thể trách anh “Chết rồi tôi vẫn không nguôi giận mẹ” và sau chuyến về thăm nhà đó “Đã nhiều năm tôi không về thăm nhà” nữa. Mẹ đã công lên việc xuống như thế nào, đến nỗi “mười năm” sau khi nhận được giấy báo tử của con, mẹ mới mò lên nơi con chết. Anh đã gặp lại mẹ mình “Mười năm kể từ cái đận mẹ đưa tôi về đơn vị để rồi tôi chết nhạt toẹt trong cái hang này” Mười năm dài đăng đẳng của một đời người. Tại sao mẹ không đến ngay khi hay tin con chết? Tại sao mẹ lạnh lùng, vô tâm đến thế? Hình như mẹ đang say với công việc, với lí tưởng vĩ đại của mẹ mà quên bén đi đứa con “đứt ruột” đẻ ra của mình. Hình như mẹ không còn một chút thời gian nào để nhớ là có một đứa con trên cõi đời này. Rồi trong một lúc cô đơn nào đó, mẹ chợt nhớ đến đứa con bất hạnh đó, rồi vội vã đi tìm nó, như mẹ đã đánh mất, để quên nó ở một xó xỉnh nào đó? Lòng người mẹ vô tâm đến thế là cùng. Đứa con ấy không đáng trách và anh trách mẹ là phải. Bởi anh chính là nạn nhân của lí tưởng của một “người mẹ vĩ đại”, “người mẹ Việt Nam anh hùng” đáng kính! Anh đủ khôn lớn để quyết định tương lai của mình, và đủ khôn ngoan để chọn lí tưởng, con đường đi cho riêng mình. Mẹ có lí tưởng của mẹ là không sai. Nhưng mẹ cũng không nên áp đặt lí tưởng của mẹ cho người khác dù đó là con mình. Trong anh đầy mâu thuẩn vì dù sao thì đó cũng là mẹ ruột của mình, vì thương mẹ, anh muốn trả hiếu cho người đã sinh thành dưỡng dục ra mình nên anh đã “ngậm ngùi chấp nhận sự sắp đặt của bà”. Cái chết của anh âu cũng là trả lại cho “mẹ” cái công lao to lớn ấy. Nên “Chết rồi tôi vẫn còn giận mẹ” cái điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại. Vì anh không hiểu mẹ, anh không thấy được đức hy sinh lớn lao ở bà để mà cảm thông với bà.
Nhưng cuối cùng anh đã hiểu và tha thứ cho bà khi bà lên tìm hài cốt của anh. Cái ngày bà lên tìm anh sau mười năm từ ngày anh chết đã làm anh xúc động vô cùng và “Tôi định ào ra đón mẹ, nhưng nỗi giận hờn lại dìm tôi xuống, khóa chân tay tôi cứng đờ. Tôi nép vào vách đá như chạy trốn” anh vẫn còn giận mẹ, và giận rất nhiều, anh tủi thân mình trước bạn vì thiếu sự quan tâm của gia đình. Và hình ảnh bà mẹ “già sụp đi. Tóc bạc phân nửa. Động tác đã chậm chạp”“ngồi lặng lẽ thắp hương. Không khóc, không sì sụp khấn vái, mắt nhắm lại như thể hóa thạch” đã làm anh chạnh lòng và xúc động “Tôi tấm tức khóc”  Anh không kìm được lòng và tiếng khóc bật lên có lẽ “vì vẫn giận mẹ” cũng có lẽ vì anh thương mẹ quá. Anh nói trong sự hờn dỗi “Con không về đâu”. Nhưng hình ảnh bà mẹ “Khuôn mặt đau đớn, co rúm lại, toàn thân run bần bật” khiến anh chạnh lòng và thương mẹ quá. Anh đã “ngã hẳn vào mẹ, luồn tay ôm lưng như thời thơ dại”. Đó chính là cái khao khát bấy lâu của anh, cái khao khát của một đứa con thiếu vắng tình cảm gia đình. Cái khao khát ấy bây giờ anh mới được toại nguyện khi anh đã ở thế giới bên kia rồi, cái thế giới không có khoảng cách giữa anh và mẹ nữa. Giờ đây anh đã được ở bên mẹ, được có mẹ vĩnh viễn, không ai có thể chia cách mẹ con anh được nữa.
5. Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện
a.      Không gian nghệ thuật
Theo sự tiếp nhận của chúng tôi, trong Bóng anh hùng, không gian được trần thuật là không gian cõi sống và không gian cõi chết. Cách xây dựng không gian như thế không lạ. Doãn Dũng dùng không gian cõi chết để soi sáng không gian cõi sống, dùng không gian cõi chết để mong giãy bày khát vọng tình cảm. Doãn Dũng xây dựng không gian cõi chết như một hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Hình tượng nghệ thuật này thể hiện cái nhìn nhiều phía về sự hy sinh của người lính, về giá trị hạnh phúc của người mẹ anh hùng. Trong cõi sống nhân vật Thắng giận mẹ. Mẹ buộc Thắng nhập ngũ, mẹ không cho Thắng ở nhà ăn Tết, mẹ không dám thương con của mình. Trong cõi chết, Thắng thương mẹ. Mẹ vẫn nhớ cái mong ước của Thắng thưở thiếu thời. Mười năm sau khi chiến tranh kết thúc, mẹ không dám chết khi chưa tìm được tìm hài cốt của Thắng. Ở đây, không gian được mở ra, ngoài không gian cõi sống tồn tại một không gian cõi chết. Theo Doãn Dũng, không gian cõi chết chẳng qua là một nhìn khác về con người. Ở góc nhìn mới này Thắng có cái nhìn khác về mẹ. Doãn Dũng mở rộng không gian nhìn cho nhân vật, cho người đọc. Theo tác giả, những không gian khác nhau sẽ có cách nhìn nhận khác nhau. Và chỉ có cách mở rông góc nhìn, con người mới hiểu được giá trị thật. Ở cõi chết, Thắng cảm nhận được tình thương của mẹ, cảm nhận được nỗi đau mất chồng, mất con, sống cô đơn trong căn hộ bé xíu. Thắng cũng hiểu được mong mỏi tìm hài cốt chồng, tìm hài cốt con của mẹ. Không gian cõi sống trong Bóng anh hùng là không gian bận rộn, lạnh lùng của mẹ, là không gian súng đạn, chết chóc nơi chiến trường. Không gian cõi sống tàn nhãn: có những người mẹ không dám thương con, có những cái chết vì lí do “tai nạn chiến trường”. Không gian cõi chết yên bình: có niềm vui yên bình, có hạnh phúc đoàn viên. Không gian cõi chết là không gian mơ ước trong lòng người mẹ. Không gian cõi chết là nơi chấm dứt nỗi đau người mẹ.
Ngoài không gian cõi chết còn có những không gian khác như không gian căn nhà mẹ, không gian ngày Tết, không gian chiến trường và nhỏ nhất là không gian cái hang “Trời đánh”. Thắng đi lính không bằng tinh thần tự nguyện nhưng khi ra chiến trường có lẽ Thắng cũng mong chết anh hùng. Nhưng khổ nỗi Thắng chết vì tai nạn đời lính. Doãn Dũng thể hiện cái nhìn khách quan của một người bàn luận chuyện đời. Tổ quốc công bằng đối với những người con chết vì cuộc chiến bảo vệ đất nước và  người lính cũng khách quan đánh giá cái chết của mình “nhạt toẹt”. Đồng thời, Doãn Dũng thể hiện cái nhìn về giá trị hạnh phúc của người mẹ là đoàn tụ với người thân trong cõi tâm linh. Doãn Dũng nói lời nhẹ nhàng về nỗi đau chiến tranh.
       b.  Thời gian nghệ thuật
Chúng tôi nhận thấy, trong Bóng anh hùng thời gian trần thuật có sự đan xen quá khứ và hiện tại. Cách thiết kế thời gian của Doãn Dũng quen thuộc. Tác giả mở đầu tác phẩm bằng thời gian hiện tại, thời gian của cõi chết vô hạn tuần hoàn. Và từ đó, tác giả trộn lẫn giữ quá khứ và hiện tại. Thời gian của quá khứ với những kỉ niệm của Thắng về mẹ. Mẹ bận rộn với công việc đoàn thể, mẹ quyết đoán rèn luyện con thành người đàn ông mạnh mẽ, mẹ lạnh lùng bắt tay Thắng ngày tiễn đưa tân binh,  mẹ có khóc khi đưa Thắng về đơn vị. Thời gian của hiện tại là thời gian của cõi chết. Đây là thời gian của mơ ước. Sau 10 năm kết thúc chiến tranh, mẹ tìm được Thắng trong cõi chết. Mẹ mơ ước ngày này để đưa con về quê nhà. Đến ngày mười bốn tháng giêng, mẹ được đoàn tụ với ba và Thắng nơi cõi chết. Trong thời gian vĩnh viễn của cõi chết những người thân yêu được sống bên nhau. Theo cái nhìn của tác giả, đôi khi thời gian cõi chết không còn là sự mất mát mà là niềm hạnh phúc mong chờ. Xong trách nhiệm của một người công dân đối với đất nước, mẹ đi tìm ba, tìm Thắng. Mẹ chờ thời gian đoàn tụ. Tác giả xây dựng thời gian cõi chết thể hiện khát vọng xoa diệu nỗi đau của người mẹ. Tác giả thể hiện nỗi đau của người còn sống mà tất cả người thân đều chết. Thời gian hữu hạn của cõi sống đau đớn quá nên tác giả muốn tạo ra thời gian vô tận của cõi chết để mong xóa đi nỗi đau trong quá khứ. Thời gian 10 năm sau chiến tranh cũng không thể xóa hết nỗi đau chiến tranh. Bằng chứng Thắng, Quý chỉ được tìm thấy nhờ nhà ngoại cảm. Vậy những người bị chết vùi trong chiến tranh khác thì sao? Đó là câu hỏi mà tác giả dành cho tương lai.
                                                     PHẦN KẾT LUẬN
                                                          ------------------

      Doãn Dũng là một nhà văn trẻ nhưng tài năng. Với cái nhìn chân thật, khách quan và không định kiến, anh đã góp vào đời sống sinh hoạt văn học nước nhà một tác phẩm hay, có chiều sâu tư tưởng. Nền văn học Việt Nam hiện tại rất cần có những nhà văn như Doãn Dũng, cần lắm những truyện ngắn hay như Bóng anh hùng.                                                        

Vấn đề tiếp nhận tác phẩm Bóng đè - nhóm Kiệt, Tuấn Anh, My,....

1. Mở đầu
Văn chương là một hình thái ý thức xã hội, bắt nguồn từ đời sống, phản ánh đời sống, bày tỏ quan điểm, cách nhìn của nhà văn đối với hiện thực đời sống.  Xuất hiện trên văn đàn với tác phẩm Bóng đè, Đỗ Hoàng Diệu đang là cái tên được chú ý trong đời sống văn học. Truyện của Đỗ Hoàng Diệu có người thích, người chê nhưng tất cả đều phải công nhận đó là hơi thở mới. Những thông điệp về cuộc sống, về sự đổi mới có phần quyết liệt được Đỗ Hoàng Diệu chuyển đến người đọc dưới cái vỏ rất sex. Xung quanh Bóng đè có rất nhiều ý kiến khác nhau. Tiếp cận tác phẩm, người đọc có những cảm xúc khác nhau, cùng với đó là những nỗi băn khoăn khó tả. Khi nghiên cứu tác phẩm Bóng đè, nhóm chúng tôi muốn đưa ra những ý kiến khác nhau của các nhà phê bình, độc giả cũng như ý kiến cảm nhận của nhóm về tác phẩm để góp thêm cái nhìn đúng đắn, khách quan về tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
Vừa xuất hiện trên tạp san Hợp Lưu, Bóng đè đã gây kinh ngạc cho nhiều người, xôn xao văn giới hải ngoại và rồi trong nước, nhất là khi truyện được đưa vào tuyển Văn Mới 2005 - NXB Hội Nhà văn.
Tổng quan về sự tiếp nhận Bóng đè, chúng tôi tạm thời phân biệt thành hai xu hướng: khen ngợi và phê phán.
Xu hướng thứ nhất là khen ngợi. Trong nhóm này có Nguyên Ngọc, Phạm Xuân Nguyên,…
Nhà văn Nguyên Ngọc thì ca ngợi nhiệt tình: “Truyện  ngắn Đỗ Hoàng Diệu toàn là những nhân vật phụ nữ, tất cả đều còn trẻ, khát khao sống, mãnh liệt sống, tràn đầy dục tính, song chắc chắn vấn đề của chị lớn hơn rất nhiều vấn đề số phận đàn bà…Những người phụ nữ của Đỗ Hoàng Diệu là những người phụ nữ phải gánh chịu “cả một quá khứ phi phàm”, bị đeo đuổi vì một thứ “tội tổ tông”, “quá thông minh nhưng quá cả tin”… (Dương Phương Vinh, Đỗ Hoàng Diệu và “Bóng đè” trong ngày giông bão)
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên viết: “Bóng đè là truyện đứng tên chung cả tập, rất tiêu biểu. Nó đầy tượng trưng, đầy ám ảnh. Nó là cả một thời đại, một lịch sử, một thân phận lớn. Đây là một truyện ngắn gần như trọn vẹn.” (Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, Người đàn bà bị bóng đè có bàn tay thanh tao)
Một số đông người hâm mộ Đỗ Hoàng Diệu đã công khai trên các diễn đàn văn học nhìn nhận chị như một tài năng, Bóng đè  là truyện mạnh nhất của chị “cả về ý tứ lẫn văn phong, xứng đáng là hiện tượng”...
Theo Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, “chị đã dám dấn thân “lặn ngụp trong vực thẳm rẩy nóng của chính mình và phát ra tiếng kêu khát khao hạnh phúc”. Dấn thân để kiếm tìm cái “tôi” đầy nữ tính trong những ràng buộc định mệnh, dấn thân để khám phá chiếc bóng của đời mình, anh cho rằng  nhân vật của Diệu là một chiếc bóng thân phận: “chúng cũng sống động như thân thể tôi khát thèm vực thẳm”, “chúng tôi không biết chọn lựa vì cơ thể chúng tôi đòi hỏi những nhục cảm mà bóng tối ban phát”.
Với nhà báo Văn Quang, “Lối viết của Đỗ Hoàng Diệu mạnh mẽ, đầy cá tính, tự tin, văn phong của cô mới mẻ tạo thành một sắc thái rất đặc trưng của Đỗ Hoàng Diệu. Lối diễn tả của cô trắng trợn, không nề hà bất cứ một hành động nào trong một cuộc ái ân giữa một cặp trai gái hoặc ngay khi bị ông bố chồng như cái bóng nhào ra ghì lấy cô con dâu với đầy đủ những thú tính cuồng nộ”. (Ngô Thị Thu Thủy, Một cách tiếp nhận “Bóng đè” của Đỗ Hoàng Diệu)
Bài viết Sức mạnh ám gợi và tưởng tượng trong “Bóng đè” của Hoàng Tố Mai đã khẳng định giá trị của tác phẩm: “Nhiều người không thích "Bóng đè". Nhưng số người thích nó vẫn đông hơn. Và dù thích hay không thích thì người ta không thể phủ nhận ấn tượng "Bóng đè" để lại. Lâu lắm mới có một truyện ngắn đặc sắc như vậy” và liên tưởng đến tác phẩm “Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp “Đó là đoạn bút ký của nhân vật người Pháp tên Phăng, y là một trong số vài người châu Âu giúp việc cho vua Gia Long. “Đặc điểm lớn nhất của xứ này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó. Vua Gia Long hiểu điều ấy và đấy là nỗi cay đắng lớn nhất mà ông cùng cộng đồng phải chịu đựng”. Đây là đoạn viết ấn tượng nhất trong “Vàng lửa”. Nó cũng là một trong những phát ngôn nặng ký nhất xuất hiện trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Gần hai mươi năm sau Đỗ Hoàng Diệu đã công khai minh họa nó bằng một tác phẩm không kém phần ấn tượng: Bóng đè”.
Như vậy, Bóng đè được quan tâm trên cả phương diện hình thức lẫn nội dung tư tưởng. Người khen cho thấy một Bóng đè nhuần nhị, tự nhiên, mạnh bạo, nữ tính, quyết liệt trong cách viết, biểu hiện bứt phá, sức truyền đạt của một giọng văn cùng phong cách nổi loạn tràn lấp nhục cảm ở tác giả này; sâu sắc, đầy ẩn dụ khi thể hiện “một trạng thái truyền kiếp của dân tộc, với những người phụ nữ bị đeo đuổi vì “một thứ tội tổ tông” “vấn đề của chị lớn hơn rất nhiều vấn đề số phận đàn bà”.
Xu hướng thứ hai là phê bình, phê phán Bóng đè  kịch liệt, gay gắt. Đây là những độc giả công khai chỉ trích tác giả trên nhiều bình diện. Ấn tượng mà những độc giả này gặp phải đầu tiên đó là “quái dị và ghê rợn”, “lợm mửa”; nhẹ nhàng hơn thì “sexy một cách lộ liễu và thông điệp còn lộ liễu hơn”. Nặng hơn là những bạn đọc trên các diễn đàn không tiếc lời phê phán Diệu trên phương diện tư cách nhà văn là “quá khích”, “đáng sợ”, “phi luân” và “thấy ghê sợ khi chị ta lấy bố chồng là liệt sĩ ra để mà viết, dù trong văn học, mọi sự phóng đại đều là có thể. Nhưng trong con mắt Á Đông, hãy để người chết ngủ yên.” (Ngô Thị Thu Thủy, Một cách tiếp nhận “Bóng đè” của Đỗ Hoàng Diệu)
 Dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng bày tỏ anh “không hoan nghênh”, cho rằng Đỗ Hoàng Diệu “không có văn”.
Theo Thanh Sơn, Đỗ Hoàng Diệu là “nhà văn của một nền văn chương già nua đang hấp hối...đại diện cho một lớp trẻ lười biếng, nghèo nàn về tinh thần, sống lạc hậu và hời hợt”. Ông cho rằng Bóng đè chỉ đơn thuần viết về tính dục trong nghĩa thấp kém của từ này, và được viết “một cách sống sượng...nhân vật không có một cuộc sống tinh thần và tình yêu thương với con người”. (Vi Khanh, Đỗ Hoàng Diệu có còn nỗi loạn?)
Những người thuộc xu hướng phê phán thì xem Bóng đè dưới hình thức một truyện khiêu dâm, hình thức “thiếu trang nhã” nếu như không muốn nói là thô bỉ. Ngập tràn trong 38 trang truyện là những “sự cương cứng thúc lên”, “cảm giác cứng cáp quệt ngang đâm vào”, “bốc cao, phịch hạ, chèn lấp, tọng đầy, thả hút mê man”, “cắt trọn trong một cú thọc sâu”, “nhồi vào, thúc sâu, bền bỉ, mạnh mẽ”… “cú thúc từ phía sau”, những “bóp nát, bục vỡ, khoan sâu”, những bộ ngực “cương cứng vì thèm khát”, những cào cấu cắn xé, những “âm thanh ập è sin sít”, “hơi thở đều đều vung vãi”.. nhào nặn nên một người đàn bà ngập ngụa trong thèm khát và thỏa mãn tính dục trong những cuộc hoan lạc phi luân với tổ tiên nhà chồng. Đề tài cũng không thoát ra khỏi ám ảnh dục tính. Họ cho rằng những tư tưởng mà tác giả úp mở, gán ghép cho nó chỉ là những áp đặt sống sượng và những gì tác giả viết thực ra chẳng có gì mới, có chăng, Hoàng Diệu chỉ mới với chính mình.
Trước nhiều ý kiến về tác phẩm, Đỗ Hoàng Diệu cũng có lần phân trần cho truyện ngắn của mình: “Tôi không viết về tình dục. Tôi viết về những điều khác và tôi mượn tình dục để đề cập những vấn đề đó”, “Đó là nhân vật yêu chứ không phải tôi”. (Dương Phương Vinh, Đỗ Hoàng Diệu và “Bóng đè” trong ngày giông bão)
Chúng tôi thấy rằng có nhiều vấn đề, ý kiến bình luận khác nhau về truyện ngắn Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu. Tiếp cận tác phẩm ở góc độ nào để có cái nhìn đúng đắn và khách quan để thẩm định giá trị của tác phẩm là điều thiết yếu của những người nghiên cứu, phê bình và thưởng thức văn học.
3. Quan điểm tiếp thu của nhóm
Tác phẩm Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu đã tạo ra một tiếng vang lớn dưới nhiều bình diện khác nhau. Có rất nhiều ý kiến, phê bình, các bài nghiên cứu… xung quanh tác phẩm nhưng nhìn chung có thể gộp theo hai xu hướng: khen ngợi và phê phán. Như đã viết, phía phê phán chung quy cho rằng: Bóng đè là một truyện sex thuần túy, chẳng có gì hay, mới lạ, còn phía ca ngợi thì xem Bóng đè giống như một thông điệp văn hóa. Ở đây chúng tôi không tách bạch ra một hướng riêng biệt, bởi khi tiếp cận tác phẩm ở những góc độ khác độ khác nhau sẽ có những vấn đề, những giá trị riêng biệt.
Trước hết chúng tôi thấy là một nhà văn nữ, Đỗ Hoàng Diệu đã hết sức mạnh dạn khi viết về đề tài tính dục và đó như là một phương tiện nghệ thuật để nhà văn chuyển tải những quan điểm của mình. Chị đã làm nổi bật lên khát vọng rất đổi mạnh mẽ nhưng cũng rất trần tục của người phụ nữ trong cuộc sống vợ chồng- khát vọng hạnh phúc ái ân mĩ mãn.  Bên cạnh đó, tác phẩm còn thể hiện một vấn đề sâu thẳm bên trong của mỗi con người - vấn đề đấu tranh giữa lí trí với dục vọng mà thật khó để lí trí giành chiến thắng. Ở đây, qua diễn biến tâm lý của nhân vật tôi sau mỗi lần bị “bóng đè”, chúng ta sẽ thấy rằng nhân vật  đã để cho lí trí bị lấn át bởi dục vọng để được những giây phút khoái cảm, thỏa mãn về xác thịt và rồi sau đó cô phải chịu sự giằng xé hết sức đau đớn của lương tâm. Vì sao lại như vậy? Truy tìm nguyên nhân, chúng ta lại thấy xuất hiện một vấn đề: vấn đề thân phận, quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ. Là con người ai cũng có nhu cầu, khát vọng được sống hạnh phúc và người phụ nữ trong tác phẩm này cũng thế. Khát vọng của cô mạnh mẽ vô cùng và chính vì thế khi sống trong gia đình chồng _ một gia đình phong kiến với sự khắc khe của hủ tục đã nhanh chóng đẩy cô rơi vào cảm giác của nỗi cô đơn cùng với sự ám ảnh đáng sợ. Nhưng, là một người phụ nữ thành thị tiến bộ, cô không hề cam chịu mà phản kháng đấu tranh cho hạnh phúc của mình. Dù rằng sự phản kháng đó đi từ chỗ đấu tranh đến thỏa hiệp và cuối cùng là bất lực. Tuy nhiên, cũng rất đáng trân trọng vì Đỗ Hoàng Diệu đã khẳng định được giá trị con người. Sâu trong tâm hồn nhân vật tôi, cô cảm thấy vô cùng đau khổ, cô vẫn chỉ mơ ước là một người phụ nữ bình thường được sống hạnh phúc bên chồng chứ không phải là trong tội lỗi với bóng ma. Điều này đã được tác giả một lần nữa khẳng định ở cuối tác phẩm với chi tiết “bàn tay”: Chúng tôi bất lực, chỉ còn những ước mơ mà không chiếc bóng nào có thể tước đoạt. Tôi đưa tay mình ra ánh sáng. Nắng lung linh trên năm ngón tay dài ngắn thanh tao lạ thường. Chiến tranh, giông gió, bão lũ, hạn hán, tôi có thể chết đi rồi mà bàn tay vẫn nguyên vẹn. Tôi đinh ninh điều ấy. Con tôi sẽ có bàn tay của mẹ. Một bàn tay không béo gầy, không trọng lượng, chỉ có làn da mỏng tanh nhưng biết níu giữ tự do cho dù bị thân thể buộc trói. Nắng tắt, mà bàn tay vẫn óng ánh kỳ diệu”. Chi tiết này chính là điểm nhấn của tác phẩm, qua đó tác giả muốn khẳng định rằng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì vẻ đẹp của con người sẽ luôn tồn tại, cho dù đôi lúc đã bị khuất lấp bởi những cái xấu xa, đen tối.
Bóng đè còn là sự đấu tranh phản kháng đối với những tập tục cổ hủ, nó như một nỗi ám ảnh, một “chiếc bóng” đè nặng lên người phụ nữ. Cụ thể là sự đấu tranh của nhân vật tôi và gia đình nhà chồng. Chi tiết “bát nhan bị đốt cháy” giống như sự thách thức của một cô gái mạnh mẽ muốn đốt cháy hết những phong tục cổ xưa đã có từ lâu đời trong gia đình chồng. Trong cái gia đình này, người ta xem cô như một công cụ để duy trì nòi giống và phải thực hiện nghĩa vụ của một nàng dâu trưởng – “hàng năm phải về cúng mười sáu cái đám giỗ”. Nó làm cho cô cảm thấy luôn bị ám ảnh và ngạt thở. Tiếp đến những định kiến khắt khe lâu đời đã hình thành nên một bà mẹ chồng khắt nghiệt, một cô em chồng đanh đá và một người chồng thờ ơ, vô tâm như Thụ. Chính những điều này đã tạo ra một khoảng cách vô hình giữa nhân vật tôi với những người bên gia đình chồng, làm cho cô cảm thấy bơ vơ, lạc lõng trong gia đình ấy. Từ ấy, càng làm tăng thêm cảm giác mơ hồ, bị “bóng đè” của cô gái và vì thế cô càng trượt dài trong nỗi cô đơn cùng cảm giác tội lỗi, sự mâu thuẫn mãnh liệt giữa lí trí và dục vọng. Nó như một ngọn lửa ngày đêm không ngừng bốc cháy thiêu đốt con người cô, làm cho cô ngày càng rơi sâu vào bi kịch. Qua những suy nghĩ của nhân vật tôi, chúng ta có thể thấy được thân phận người phụ nữ trước những năm hai mươi là vô cùng nhỏ bé. Với Bóng đè, Đỗ Hoàng Diệu rất thành công khi xây dựng nhân vật tôi để gởi đến người đọc nhiều tầng ý nghĩa ẩn sâu trong lớp ngôn ngữ đầy mạnh mẽ, táo bạo ấy. Tác phẩm đặt ra vấn đề số phận, quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ không chỉ là xã hội xưa mà ngay cả trong hiện tại. Là sự đấu tranh giữa lí trí và dục vọng, đấu tranh cho khát vọng được tự do về mặt tinh thần và chống lại những tập tục lạc hậu, cổ hũ có từ ngàn xưa để giành lại hạnh phúc chính đáng cho người phụ nữ.
 Tuy nhiên, tiếp nhận những mặt thành công điều đó không có nghĩa là tác phẩm này hoàn hảo. Chúng tôi thấy rằng khi viết Bóng đè, dù Đỗ Hoàng Diệu với ý thức là đề cao khát vọng trần tục của người phụ nữ. Nhưng nhà văn đã cho nhân vật của mình thỏa mãn dục vọng  bằng cách chà đạp lên luân thường đạo lý. Và đó chính là phần nào còn hạn chế của tác phẩm. Vì người phụ nữ Việt Nam dù khát vọng đến đâu cũng không bao giờ đồng lõa với sự loạn luân. Chính vì vậy, nhân vật tôi không phải là nhân vật điển hình cho người phụ nữ Việt Nam mà chỉ là mẫu người tiêu biểu cho một bộ phận rất hiếm sống theo kiểu “nổi loạn”, bất chấp cả truyền thống đạo đức. Điều này làm cho Bóng đè không được nhiều độc giả chấp nhận. Hơn nữa, ở phần cuối tác phẩm, Đỗ Hoàng Diệu đã bộc lộ một nét hạn chế trong tư tưởng bởi cái nhìn bi quan về thế hệ tương lai khi khẳng định thế hệ ấy cũng bất lực trước dục vọng, sẽ đồng lõa với bóng ma. Cuối cùng trong tác phẩm, Đỗ Hoàng Diệu nhắc nhiều đến yếu tố nguồn gốc Trung Hoa của nhà Thụ. Điều này làm cho người tiếp nhận tác phẩm hiểu tác phẩm mang tính chất chính trị. Trong khi đó vấn đề chính trị là vấn đề lớn của cả dân tộc, còn tính dục là nhu cầu thuộc về nhu cầu cá nhân của con người. Vì thế khi bị “cưỡng hiếp” một số cá nhân có thể chấp nhận nhưng “cưỡng hiếp” cả một dân tộc thì điều này không thể chấp nhận. Nhà văn vẫn chưa thật khéo léo khi muốn lên tiếng phản đối những tập tục lạc hâu bằng việc lồng ghép vào nguồn gốc gia đình Thụ, đây là một vấn đề hết sức tế nhị và nhạy cảm cần phải được xem xét cẩn thận khi tiếp nhận tác phẩm. Vì yếu tố này liên quan nhiều đến chính trị và mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam-Trung Quốc. Trong bối cảnh xã hội như hiện nay, vấn đề chính trị và an ninh quốc gia vô cùng phức tạp nên việc sử dụng yếu tố này vào tác phẩm sẽ gây nhầm lẫn cho người đọc và làm giảm đi phần nào ý nghĩa của tác phẩm.
4. Kết luận
Xuất hiện trên diễn đàn văn học, Đỗ Hoàng Diệu đã ghi lại hình ảnh của người phụ nữ đương đại và cũng là ghi lại tên tuổi của chính mình. Bóng đè của Hoàng Diệu có ý nghĩa lớn lao. Tác giả đã phá đi hàng rào cấm kị để đi sâu vào khám phán bản chất nhân văn của con người, tức là phơi bày, vạch trần cái xấu, cái chưa tốt là bày tỏ mong muốn con người được tốt hơn. Văn học là phải nhìn thẳng vào sự thật để lên tiếng và Bóng đè của Hoàng Diệu là một tác phẩm như thế.
Tiếp nhận văn học sẽ không bao giờ là vấn đề cũ chừng nào còn sáng tạo nghệ thuật, sáng tác văn học. Tiếp nhận văn học sẽ không bao giờ đồng nhất bởi có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau khi tiếp nhận tác phẩm. Chính điều này sẽ là một yếu tố không nhỏ tạo nên sự phát triển, tiến bộ cho phê bình, tiếp nhận và sáng tạo văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung. 

* Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Hoàng Diệu, Bóng đè, NXB Đà Nẵng, 2007.
2. Nguyễn  Hòa, Tác phẩm “Bóng đè” - Phê bình nói “mớ” (Nguồn: Nguyễn Hòa , Bàn phím và cây búa, NXB Văn học, 2007).
3. Trần Yên Hòa, Từ “Bóng đè” đến “Cánh đồng bất tận” (Nguồn: http://www.xuquang.com)
4. Lê Anh Hoài, Thử khảo sát hai thái độ với truyện ngắn của Đỗ Hoàng Diệu (Nguồn: Nguồn: http://www.vanchuongviet.org)
5. Vi Khanh, Đỗ Hoàng Diệu có còn nỗi loạn (Nguồn: http://www.tienphong.vn)
6. Nguyễn Mậu Hùng Kiệt, Người đàn bà bị bóng đè có bàn tay thanh tao (Nguồn: http://www.thotre.com)
7. Đỗ Ngọc Thạch, Ba cây bút nữ đại náo văn đàn 
đầu thế kỉ XXI
(Nguồn: http://newvietart.com)
8. Ngô Thị Thu Thủy, Một cách tiếp nhận “Bóng đè” của Đỗ Hoàng Diệu (Nguồn: http://marjoriethuy.blogspot.com)
9. Dương Phương Vinh, Đỗ Hoàng Diệu và “Bóng đè” trong ngày giông bão (Nguồn: http://www.vietbao.vn)



Vấn đề tiếp nhận tiểu thuyết “Sông” của Nguyễn Ngọc Tư - nhóm Mai, Hằng, Hương

  1. Mở đầu
         Trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới, khoảng mười năm đầu của thế kỉ XXI, người yêu văn chương không thể không biết đến nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Tuy là một cây bút trẻ về tuổi đời lẫn tuổi nghề nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã hình thành một phong cách riêng độc đáo. Nguyễn Ngọc Tư có những bước tiến khá tự tin và vững chắc vào làng văn Việt Nam. Với Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn phải luôn là chính mình trên từng trang văn cho dù có những dư luận thậm chí trái chiều. Sự quan tâm của người đọc và giới phê bình đến tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư được thể hiện ở bài viết trên một số báo, tạp chí và internet. Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư khi ra đời đều được đón đọc, quan tâm đồng thời cũng tạo được những cuộc tranh luận khá thú vị trên văn đàn. “Sông”, tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư, được đón nhận trong trường hợp như thế. Nguyễn Ngọc Tư cho rằng: “Cây tới mùa nó thay lá, quả tới mùa nó chín. Mọi người dường như muốn một thứ quả cứ xanh mãi. Điều đó hơi trái tự nhiên, như thể một dòng sông không chảy được vậy đó. Nhà văn đã đi rất là xa, mà bạn đọc cứ ngồi mãi một chỗ cũ, cứ mong chờ như mình vẫn còn ở đó, trong khi một nhà văn thì luôn phải đi tới, bỏ những hào quang lại sau lưng”. Với Nguyễn Ngọc Tư nghề văn là một nghề sáng tạo, một hành trình dài vô tận…
  2. Nội dung
   2.1. Giới thiệu tác giả, sơ lược về tác phẩm
    2.1.1. Tác giả
     2.1.1.1. Đôi nét về con người và sáng tác
      - Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Khi mới học hết lớp chín, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên chị phải nghỉ học. Hiện nay, Nguyễn Ngọc Tư cùng gia đình cư ngụ tại thành phố Cà Mau, làm phóng viên cho tạp chí Văn nghệ Cà Mau và hội văn học nghệ thuật Cà Mau. Trong đời thường, Nguyễn Ngọc Tư có vẻ ngoan hiền, thích cuộc sống giản đơn nhưng nội tâm phức tạp.
      - Tác phẩm đầu tay là tập kí sự “Nỗi niềm sau cơn bão dữ” với giải ba báo chí toàn quốc năm 1997 đã chính thức đưa Nguyễn Ngọc Tư vào nghề văn. Nguyễn Ngọc Tư là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Nhà văn đã đạt nhiều giải thưởng như giải nhất cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần II (năm 2000) với tác phẩm “Ngọn đèn không tắt”, giải B Hội nhà văn Việt Nam (năm 2001) cho tập truyện “Ngọn đèn không tắt”. Tác phẩm nổi tiếng nhất là “Cánh đồng bất tận” đã nhận được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2006 và được đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình dựng thành phim cùng tên. Năm 2008, Nguyễn Ngọc Tư nhận giải thưởng văn học các nước Đông Nam Á…
     2.1.1.2. Đặc điểm sáng tác

      - Trong dòng chảy chung của văn xuôi đương đại, Nguyễn Ngọc Tư đã tìm cho mình một lối đi riêng, một phong cách riêng nên để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Cũng như nhiều nhà văn nữ khác, thế mạnh của Nguyễn Ngọc Tư là nói về nỗi đau, về thân phận những người phụ nữ trong cuộc sống hiện đại. Bằng sự thấu hiểu, cảm thông, Nguyễn Ngọc Tư ý nhị đưa ra những khao khát khôn nguôi về bến bờ hạnh phúc, sự bình yên trong tâm hồn mỗi con người.

      - Cho dù viết về mảng nào, lĩnh vực nào, thể loại nào với Nguyễn Ngọc Tư, điều quan trọng vẫn là cảm xúc. Cảm xúc thật từ đời sống chỉ có được khi thực sự hòa nhập với đời sống. Nguyễn Ngọc Tư luôn có cách khai thác hiện thực đời sống một cách có chiều sâu nhất. Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Ngọc Tư lấy cảm hứng từ cuộc sống với số phận của những nhân vật nhỏ bé, những người nông dân lam lũ, những người nghệ sĩ nghèo khổ bất hạnh, những đứa trẻ đáng thương, những người đàn bà tội nghiệp…ở chính vùng quê Nam bộ. Chính số phận trớ trêu của họ đã tạo cảm xúc cho Nguyễn Ngọc Tư trong sáng tác.

      - Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút độc đáo đậm chất Nam bộ. Đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, người đọc có cảm giác nhà văn chẳng đi đâu xa ngoài vùng đất của mình. Cũng chính bởi Nguyễn Ngọc Tư sống và yêu hết mình với mảnh đất Cà Mau và cũng không muốn đi xa khỏi nó. Ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư sử dụng trong tác phẩm của mình chủ yếu là ngôn ngữ của người dân sống ở thôn quê, ruộng vườn cho nên cách hành văn, diễn đạt nôm na dễ đọc, dễ hiểu. Giọng văn dung dị mà sâu lắng, trữ tình nhẹ nhàng, câu văn mềm mại chan chứa yêu thương…

    2.1.2. Sơ lược về tác phẩm
       “Sông” là câu chuyện của một lớp người trẻ hiện đại đi tìm cội nguồn và ý nghĩa tồn tại của mình ngay trên chính quê hương mình. Nhân vật chính tên Ân - một người vác ba lô xuôi dọc sông Di, bạn đồng hành của cậu là những người gặp tình cờ trên mạng, chỉ biết nhau vỏn vẹn qua cái tên: Xu và Bối. Ân có cha, có mẹ nhưng cũng như một đứa trẻ sinh ra trong lạc loài, vô thừa nhận, nhớ mãi cú xô ngã chối từ cay nghiệt của bà nội. Xu lớn lên trong trại trẻ mồ côi. Và Bối khao khát tình thương cũng thích chơi trò biến mất chỉ để được tìm kiếm. Ba con người đầy sức trẻ nhưng cũng đầy mất mát. Họ đã gặp nhau trong hành trình khám phá sông Di và khám phá chính bản thân mình. Mỗi người một gương mặt, một số phận nhưng họ cùng có khao khát được sống tự nhiên như một con sông, được chảy tự nhiên như thế. Những tâm hồn thương tổn đi dọc sông Di gặp và chứng kiến những mảnh đời khác, thăng trầm như sông, mong manh như sông. Những con người lần lượt biến mất để lại nỗi ám ảnh theo dọc sông Di...
   2.2. Những ý kiến khác nhau về tác phẩm
     2.2.1. Nội dung
      - (1) Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, một trong số ít người tiếp cận bản thảo “Sông” sớm nhất, nhận xét: “Ở Sông vẫn là không gian sông nước quen thuộc trong những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Sông là chuyển động, là dòng chảy. Với việc cho nhân vật ra đi men theo dòng sông, Tư đã làm được hai việc: vừa phản ánh hiện thực, kể, tả về những vùng đất dọc hành trình vừa men theo dòng chảy tâm trạng để nhân vật bộc lộ mình.”
      - (2) Trong bài viết “Sông và hành trình “bản ngã” của Nguyễn Ngọc Tư”, Hoài Phương nhận định: “Văn chị có cái nồng hậu của con người miền Nam, cái nồng hậu không đơn giản chỉ là tỏa ra từ hệ thống từ địa phương được dùng dày đặc, mà sâu hơn, nó tỏa ra từ một cái nhìn không bao giờ vơi nỗi thương cảm với thân phận con người. Dù ở đây chị có gồng lên, có làm khác đi so với cái giọng của thời kỳ truyện ngắn, nhưng cái thương cảm ấy vẫn lúc chìm sâu lúc phập phồng trên mạch đập của dòng văn.”
      - (3) Nhà biên tập Trần Ngọc Sinh rất xác đáng khi nhận xét ngắn gọn về “Sông” như sau: “Sông - Tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư là một sự đổi mới toàn diện của chính cô. Đẹp. Đáo để. Trần tục và hư ảo. Truyện kết thúc bằng dấu chấm hỏi về số phận một con người - Không hề do dự, cô đã đẩy cái mầm ý tưởng vừa nhú lên sang tay người đọc, để họ nuôi dưỡng chúng bằng trải nghiệm, qua việc đọc cuốn sách này.”
      - (4) Nhà báo Hàm Châu khẳng định: “Đọc văn Nguyễn Ngọc Tư không thấy lóe lên chút ánh sáng yêu đời nào. Trong Sông, tôi không chia sẻ được tâm hồn với nhân vật nào. Ảm đạm quá. Các nhân vật hơi lạ thường, kỳ dị, không phổ quát trong xã hội. Một tài năng như Nguyễn Ngọc Tư nên viết tươi sáng hơn.”
      - (5) Trong bài viết “Nguyễn Ngọc Tư và Sông”, Trần Hữu Dũng nêu lên nhận định: “Bằng cách đưa ra những địa danh hư cấu, có lẽ Nguyễn Ngọc Tư không muốn người đọc liên tưởng đến những gì dính líu đến những địa danh có thật. Cô muốn bứng rễ người đọc để đưa vào khung cảnh táo bạo của câu chuyện. Nhiều tác giả đã dùng thủ thuật này, nhưng tôi nghĩ Nguyễn Ngọc Tư đã không tận dụng những tiềm năng mà thủ thuật này tạo cho người viết. Bởi lẽ, ở những tác giả khác thì một địa phương hư cấu được cả một khối cư dân làm nền cho câu chuyện, với cá tính và lịch sử đặc biệt của họ, còn sông Di của Nguyễn Ngọc Tư chỉ là...sông Di (dù cô có cho thêm vài chi tiết hư cấu về lịch sử, nhân chủng của vùng ấy). Đó là một hư cấu tiêu cực (không muốn độc giả liên tưởng đến địa danh quen thuộc nào khác) hơn là tích cực (với những cái đặc trưng ở nơi ấy). Nguyễn Ngọc Tư mời chúng ta theo cô đến miền hư cấu ấy của cô, nhưng ta không thấy gì mới lạ ở đó, và tự hỏi: Sao chúng ta không “ở nhà”, một địa danh quen thuộc nào đó ? Với những địa danh hư cấu, trong trường hợp này, tôi nghĩ Nguyễn Ngọc Tư đã gây cho độc giả một sự “rối trí” không cần thiết. Vì sông Di không đem lại gì cho câu chuyện, những đoạn về địa lý của sông ấy (gần sông nào, núi nào, thành phố nào...) có hơi thừa, không có một tác dụng gì ở người đọc.”
     2.2.2. Nghệ thuật
      - Cũng trong bài viết “Nguyễn Ngọc Tư và Sông”, Trần Hữu Dũng nêu nhận định như sau:
      ö (6) “Tuy là tiểu thuyết đầu tay nhưng ai cũng sẽ thấy rằng đây không phải là tác phẩm của một ngòi bút mới vào nghề. Về nhiều mặt, có một sự tiến bộ rõ rệt về kỹ thuật viết, và hiển nhiên là (như hầu hết tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư) một sự cẩn trọng tột bực trong văn phong, tỉ mỉ trong chữ nghĩa, và những nhận xét cực kỳ tinh tế về những sinh hoạt đời thường. Có những câu thật hay như “Ham muốn tắt đi rất nhanh, nhưng rạo rực như cái đuôi. Quét lướt thướt trong tâm tưởng”. Thậm chí, có nhiều đoạn đẹp đến nỗi người đọc có thể thất vọng là câu chuyện chưa xứng tầm kỹ thuật của cô.”
      ö (7) “Dùng hình tượng một con sông để “xỏ xâu” các câu chuyện lại với nhau không phải là một thủ thuật mới. Nhiều nhà văn sử dụng rất công hiệu kỹ thuật này trong không ít tác phẩm kinh điển. Tuy nhiên, một người đọc khó tính (hay kỳ vọng nhiều hơn ở Nguyễn Ngọc Tư) có thể tiếc rằng cô đã không tận dụng sự súc tích mà hình tượng ấy có thể cung cấp cho cô, dù cô đã khai thác khá nhiều.”
      - (8) Trong bài viết “Sông và hành trình “bản ngã” của Nguyễn Ngọc Tư”, Hoài Phương nhận định: “Có khi giọng văn tỏ ra tiết chế, hờ hững, phớt đời với những câu lược hết tính từ, lại có những khi lũ tính từ mà Ân chối bỏ như thể chối bỏ bản tính “đàn bà” trong con người mình ấy tràn ra những câu văn dài, nhấm nhẳng day dứt, dằn vặt và cũng không ít chỗ thật nồng nàn. Cũng như những chi tiết ảo mang tính biểu tượng, những chi tiết về tính dục gây ám ảnh đôi khi chị hơi lạm dụng khiến cuốn tiểu thuyết đôi chỗ quá rậm rạp, “nhiều đạm”, mà giá tiết chế hơn chắc sẽ làm chủ tốt hơn nhịp điệu tác phẩm. Điều ấy cũng có thể là một phương thức diễn tả nhân vật đang đi tìm chính mình, hay chính giọng văn ấy cũng đang định hình chính mình, trong một hành trình văn chương vốn dĩ luôn đòi hỏi sự thay đổi trong nhất quán và không bao giờ có điểm kết.”
      - (9) Cao Việt Dũng trong “Nguyễn Ngọc Tư: Sông và những cuộc bỏ đi” cho rằng: “Một tiểu thuyết không nhất thiết bắt người đọc chú tâm mọi lúc, nó không cần quá nhiều “đạm”, nó dung chứa được những đoạn chùng xuống, chậm lại, thậm chí lê thê, không cần quá nhiều cảm nghĩ, quá nhiều miêu tả trộn trong cảm giác. Điều này liên quan tới một khái niệm, tempo (nhịp). Chính vì xử lý không tốt tempo nên Nguyễn Ngọc Tư không hẳn là thành công ở đoạn cuối, lẽ ra phải lên cao trào khi các nhân vật đến được cái hồ Thiên huyền bí. Vài chương cuối cùng không đủ độ chùng xuống nên đi đến một cái kết tương đối lộ liễu, dễ đoán.”
   2.3. Quan điểm của nhóm
     2.3.1. Tương đồng
      2.3.1.1. Nội dung
      - (1) Về nhận xét của Phạm Xuân Nguyên, chúng tôi đồng tình “Sông” là không gian sông nước quen thuộc; trong tác phẩm, tác giả vừa phản ánh hiện thực vừa để nhân vật bộc lộ mình.
       ö Trong hầu hết tác phẩm của mình, Nguyễn Ngọc Tư luôn thể hiện đậm nét đời sống vùng sông nước gắn liền với con người Nam bộ. Thế nhưng trong tác phẩm này, nhà văn chỉ lấy bối cảnh là không gian sông nước (con sông Di) chứ không đi sâu vào việc khắc họa đời sống của con người ở vùng sông nước. Vì theo tác giả, “Sông chỉ là bối cảnh, một dòng chảy nửa thực, nửa mang tính tượng trưng. Đây là cái cớ để những nhân vật của tôi bước vào cuộc phiêu lưu của họ, kể chuyện đời họ và những người sống ở hai bên bờ”. Đó là một dòng sông hư cấu nhưng lại chảy qua những bãi bồi phù sa, ghềnh thác để chứng kiến bao thân phận con người.
       öSông” đã phản ánh được hơi thở của cuộc sống. Nguyễn Ngọc Tư đã ghi chép khá đầy đủ nhiều mảng đề tài xã hội được dư luận nhắc đến hàng ngày như đồng tính, bi kịch gia đình, ngược đãi trẻ em, tôn giáo, tệ nạn xã hội (ma túy, buôn lậu, dân đào vàng, lâm tặc, mãi dâm, dân giang hồ xử nhau…), suy đồi đạo đức, ô nhiễm môi trường, lũ lụt, lạm phát lễ hội và tượng đài, báo mạng lá cải…đến những vấn đề chính trị nhạy cảm cũng thấp thoáng như tranh chấp quyền lực, hòa hợp dân tộc, chủ quyền biển đảo, quan hệ quốc tế…và tất nhiên là phải kể đến yếu tố sex.
       ö Nhà văn phản ánh cái bên ngoài, cái bề mặt là để khơi vào, chạm tới cái bề trong, cái bề sâu của con người. Tác giả để cho từng nhân vật trôi đi trong một thực tại đầy hư ảo của kiếp người với ám ảnh “tồn tại hay không tồn tại, đó mới là vấn đề”. Những mảnh đời những kiếp sống, đời người đời sông, đời của những khúc sông, đời của những huyền kỳ dọc con sông dằng dặc. Mỗi người đều có những thôi thúc sâu xa mà chính họ cũng không biết chính xác nó là gì. Nỗi thất vọng với người tình đồng tính là cái cớ để nhân vật Ân làm một cuộc soi lại chính mình. Hành trình đi ngược sông Di của Ân cũng là hành trình đào xới lại tâm thức, lật lại từng kỷ niệm, những “tình tiết” trong đời. Người cha chưa bao giờ là cha theo mọi nghĩa, kể cả điều sâu xa nhất là cảm giác huyết thống với con người ấy Ân cũng không hề có. Với mẹ, Ân là nơi để trút những kỳ vọng, yêu thương, là chiếc gương mà bà cần để ngày ngày soi ngắm bản thân, chứ không phải như là chính con người cậu. Cuộc sống của sông là sự chảy trôi, cũng như đời người, rốt cuộc tìm đến bản chất tận cùng ta chỉ thấy sự vô thường. Những dòng sông bị lấp nhưng dòng chảy vẫn miệt mài ở dưới tầng sâu dần bào mòn lòng đất, cho đến một thời điểm nào đó bật dậy thành những cuộc lở sông kinh hoàng. Và bản chất con người cũng vậy. Sự vặn xoắn trong tâm thức con người đi ngược với bản chất tự nhiên, chối bỏ nó hoặc che đậy nó, để có thể sống yên ổn trong cái gọi là xã hội con người đều là cội nguồn bi kịch. Với ý nghĩa đó, “Sông” không hề nhẹ nhàng nhưng nó lại như đang ẩn náu trong cái thời đại này.
      - (2) Hoài Phương khá tinh ý khi cho rằng Nguyễn Ngọc Tư luôn cái nhìn không bao giờ vơi nỗi thương cảm với thân phận con người dù cách thể hiện có khác hơn so với trong truyện ngắn. Bởi lẽ cuộc sống này chứa đựng quá nhiều thân phận, quá nhiều nỗi đau và cả những oan khiên “Nếu mỗi biến cố là một sợi len, người ta có thể dệt thảm cho cả sân bóng”. Do vậy, trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư, yêu thương đã thành lẽ sống, niềm vui, niềm hạnh phúc. Chính bởi thế, hầu hết các nhân vật trong tác phẩm luôn khát khao yêu thương và được yêu thương. Trong tiểu thuyết này, Nguyễn Ngọc Tư cho rằng không chủ ý viết về đồng tính. Nhưng những trang viết về tình yêu đồng tính của nhân vật chính Ân với Tú là những trang viết đẹp. Nhà văn đã dành nhiều cảm tình đặc biệt cho các nhân vật của mình. Nhân vật Tú không có mặt trong chuyến du hành lang thang theo dòng sông Di nhưng những hồi ức tình yêu của hai người trong những lúc gần gũi và những tin nhắn “vói” theo của Tú được tác giả mô tả cho thấy đây là một mối tình đẹp, hay có thể nói khác là “bình thường” so với các mối tình đã tồn tại trên thế gian này: cũng quan tâm, yêu thương, giận hờn, trách móc, nhớ nhung…“Báo nói Ân đi sông Di. Không ngờ Ân quyết liệt vậy. Chúng mình đâu phải chấm dứt ở đây ?”, “Ăn ngủ có vất vả lắm không ?”, “Coi ảnh trên mạng, thấy Ân đã đen nhiều. Đứt ruột !”, “Ân ơi !” (nhắn bốn lần cùng một nội dung), “Tú ớn ói việc phải sống như con người khác. Ân giúp Tú tìm lại chính mình đi.”, “…Tú mà không cưới thì cậu cũng sẽ bận nấu nướng, bận lấy đùi làm gối, vít đầu Tú xuống để nhá tai Tú giữa hai hàm răng sực mùi ổi chín của mình, vờn lưỡi mình lên khóe môi Tú, nơi mà cậu cho rằng hàng vạn lời hay ho nương náu ở đó trước khi thành tiếng nói…”. Là người giàu cảm xúc và coi trọng cảm xúc trong sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư luôn níu giữ lòng tin yêu của con người. Nguyễn Ngọc Tư nếu có viết về cái ác cũng là một cách để tôn vinh cái thiện và ca ngợi tình yêu thương con người, để con người biết sống tốt đẹp, nhân ái hơn.
      - (3) Chúng tôi đồng ý khi Trần Ngọc Sinh cho rằng “Sông” có nhiều chi tiết trần tục và hư ảo và truyện kết thúc bằng dấu chấm hỏi về số phận một con người.
       ö Chúng tôi hiểu từ “trần tục” ở mức độ là Nguyễn Ngọc Tư có cái nhìn vấn đề rất thực tế, rất đời thường như vốn có trong cuộc sống. Trong “Sông”, lần đầu tiên Nguyễn Ngọc Tư đề cập đến một chủ đề khá thời sự và nhạy cảm là đồng tính. Nhưng nhà văn chỉ tiếp cận nó về mặt tinh thần, về nội tâm con người, về những suy nghĩ và dằn vặt của nhân vật chứ không hoàn toàn khai thác những gì thuộc về thân xác và nhục cảm. Nguyễn Ngọc Tư từng thổ lộ rằng: “Khi viết Sông, nhiều bạn cũng đã hỏi tôi tại sao không đi sâu vào sex, nhục dục, nhưng tôi nghĩ đồng tính không chỉ có sex. Họ cũng có ẩn ức khác, những mối quan tâm xã hội, có đời sống rất bình thường. Viết về đồng tính đâu cứ phải sex. Khi nhà văn đào sâu tâm tư, ẩn ức của họ cũng rất hấp dẫn”. Trong tiểu thuyết này, ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư luôn dằn vặt, trăn trở về một cuộc sống được luôn là chính mình của một kiếp người. Như vậy, tác giả không có tham vọng khảo sát thế giới người đồng tính mà chỉ muốn chọn một mẫu nhân vật có đời sống khá phức tạp. Bởi lẽ, còn dạng nhân vật nào phức tạp, vật vã đấu tranh với bản năng và lý trí, với chính mình và với cái nhìn chật chội của xã hội như một người đồng tính không ? Sinh ra có vẻ là người này, nhưng sâu thẳm trong họ là người khác, họ vùng vẫy làm sao để sống như mình muốn, như chính mình ?
       ö Cái hiện thực trong “Sông” không hoàn toàn là hiện thực nhưng chưa bước hẳn sang bên kia lằn ranh ngăn cách với cái hư ảo, bầu không khí mà cuốn tiểu thuyết tạo ra dường như là một cái gì đó “từa tựa sự thật”. Chẳng hạn, những tên riêng Mù Sa, Tầm Sương hoang vắng như lôi về từ một miền hư ảo, nhưng dãy núi Thượng Sơn thì hao hao Trường Sơn, sông Mê Giang nhất định gợi tới Mê Kông, Vũng Thuyền thì âm hưởng Vũng Tàu và vẫn nhiều chi tiết không có chút đổi thay nào như phố Lý Thường Kiệt, tên người như Nguyễn Trãi, Quang Trung hay Nguyễn Ánh…Bên cạnh đó, những địa danh trong tác phẩm rất lạ lẫm và xa xôi như Băng Khâu, Mù Sa, Ể Ưu, Di Ổ…Tiếp sức cho bầu không khí ảo là những sách vở bịa ra như cuốn “Ba tháng ở miền Hạ” của mấy nhà truyền giáo người Bồ, di cảo “Sông nước miền Hạ” của Mai Nam Tư hay “Những làng nghề thủ công châu thổ sông Di”, “Di lưu ký” rồi “Tương tàn ngoại sử” và nhất là quyển ghi chép dày 186 trang của một vị tu sĩ người Pháp, trong đó chín trang rưỡi liên quan đến thượng nguồn sông Di…Không khí đặc trưng của miền Tây vẫn tiếp tục rõ nét trong “Sông” cộng thêm một yếu tố hư ảo có tính chất ma quái mà ta như thể bắt gặp được ở bất kỳ khuôn mặt và khung cảnh nào. Người già, trẻ nhỏ, đàn ông đàn bà tất cả xuất hiện thoáng qua và vụt biến mất. Không phải là một người mà chỉ cần một đêm sạt lở thì cả một làng bất ngờ sẽ bị cuốn đi rồi mất tích mau chóng để lại nỗi ám ảnh theo dọc sông Di. Những cái lu tắm chung nam nữ như hội Tắm Lu chợ Thương tổ chức vào ngày Rằm tháng Hai những năm chẵn, một dạng chợ tình Khâu Vai miền sông nước. Có ý kiến cho rằng đây là một tiểu thuyết núp bóng du ký, kiểu vừa đi vừa kể chuyện, sẽ có những vùng đất trôi qua luôn, những con người không còn gặp lại. Chính yếu tố hư ảo đã khắc họa nên điều này.
        ö Nếu người đọc trông mong một cái kết “có hậu” sẽ hụt hẫng vì không có một kết thúc êm đẹp. Thậm chí những dòng cuối còn gieo vào một nỗi hoang mang, một hoài nghi như thể một làn khói hư ảo bỗng bao trùm lên toàn câu chuyện. Không có kết cục tốt đẹp mà chỉ có những biến dịch thuận theo với tự nhiên. Có lẽ cuộc sống là vậy, ta hiểu nó đến cùng để mà chấp nhận nó, hay chấp nhận nó để có thể hiểu nó. Và con người cũng vậy, hẳn sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều khi chấp nhận cái mình đang hiện hữu, đang biến đổi không ngừng…Cuối cùng, sau rất nhiều năm tìm kiếm, San lựa chọn cách ngủ mãi mãi. Ánh lựa chọn biến mất cùng một thằng nhóc đã đeo đuổi cô suốt mấy năm ròng. Tú buông xuôi. Trong số các nhân vật, có lẽ số phận của nhân vật chính Ân sau cùng mới để lại nhiều day dứt nhất. Phía cuối hành trình, cậu cũng biến mất giữa dòng sông như thể chưa từng hiện hữu. Một cuộc tìm lại hình hài khắc nghiệt khi cậu không có quyền thay đổi giới tính, không có quyền lựa chọn hạnh phúc và nhen nhóm trong trái tim yêu thương ấy là sự ghen tị, ích kỷ cũng nằm ở đỉnh điểm không thể tách rời. Sông chứng kiến tất cả và cũng cuốn đi tất cả.
      - (4) Đúng như lời nhận xét của nhà báo Hàm Châu, trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đa phần là buồn, bi quan. Tuy nhìn tổng thể, tiểu thuyết này mang hơi văn buồn, có màu sắc ảm đạm nhưng chính vì điều đó đã tạo nên một bản sắc văn chương rất riêng của Nguyễn Ngọc Tư. Trong “Sông” cũng thế, đó là niềm riêng của biết bao nhiêu con người: hành trình đi tìm lại con người thật của Ân, khao khát hạnh phúc của Xu, sự nổi loạn của San, vẻ buông xuôi của Tú. Dù giọng văn ở tiểu thuyết này đã cố sắc lạnh hơn với nhịp văn nhiều chỗ dứt khoát hơn nhưng đều không thể thay đổi hơi văn buồn. Dù nhà văn “bỏ lại cánh đồng” đến với “Sông”, từ truyện ngắn sang tiểu thuyết nhưng có một thứ vẫn giữ lại, đó là giọng văn trầm buồn, hơi văn bảng lảng.
      - (5) Chúng tôi khá đồng tình với quan điểm này của Trần Hữu Dũng, bởi qua tác phẩm, Nguyễn Ngọc Tư đã không dùng địa danh thật. Có lẽ, do sự cố “Cánh đồng bất tận”, nhà văn không muốn lấy địa danh thật nữa. Nhưng theo chúng tôi viết như vậy là không đặc sắc, không cuốn hút. Nếu nhà văn hư cấu thì cũng phải cho người đọc cảm nhận được dụng ý nghệ thuật của mình, còn trong tiểu thuyết này, địa danh đưa vào ít mang tính nghệ thuật. Qua tác phẩm, người đọc cũng phải cảm thấy mình ở đâu đó trong tác phẩm, hay hiện thực hiện ra trước mắt, còn trong tiểu thuyết “Sông”, tác giả hư cấu nhiều quá, ít hiện thực nên người đọc cảm nhận được nét không thật. Điều Nguyễn Ngọc Tư muốn chuyển tải qua con sông Di thật sự mờ nhạt. Tác giả tả có vẻ hay nhưng thật sự hơi thừa, không tác dụng gì ở người đọc.

       2.3.1.2. Nghệ thuật
        - (7) Trần Hữu Dũng khá chính xác khi cho rằng Nguyễn Ngọc Tư không tận dụng sự súc tích mà hình tượng ấy (hình tượng một con sông) có thể cung cấp. Con sông Di trong tiểu thuyết này huyền ảo mà cụ thể, không thực nhưng thật. Nó là một nhân vật bao trùm, cuốn trôi cả Ân và hai người bạn đồng hành, cuốn trôi cả bao cuộc đời người bên sông vừa trôi vừa ngoái nhìn, vừa trôi vừa chìm. Trải dài con sông Di là những câu chuyện, những mảnh đời khác nhau. Có vẻ trong tiểu thuyết này, Nguyễn Ngọc Tư đã không tận dụng tốt hình tượng con sông không giống như trong “Cánh đồng bất tận”, hình tượng cánh đồng bất tận đã được Nguyễn Ngọc Tư sử dụng rất thành công. Qua tác phẩm, dù Nguyễn Ngọc Tư đã cố gắng để những câu chuyện của mình liên quan đến dòng sông Di nhưng nó vẫn rời rạc và thiếu tính điển hình.
        - (8), (9) Hoài Phương Cao Việt Dũng đều có một điểm chung khi nhận xét về giọng điệu trong tiểu thuyết này. Như chúng tôi đã trình bày, “Sông” là tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư. Bên cạnh sự thành công nhất định, đôi chỗ trong tiểu thuyết này khiến người đọc chưa tiếp nhận một cách thỏa đáng như cách viết đều đều thay vì cách kết thúc cần cao trào để gây bất ngờ hay nhiều câu văn dài dòng xen lẫn cảm xúc của tác giả…Tuy nhà văn có một sự bứt phá nhưng chưa toàn diện. Tác phẩm là minh chứng cho một sự thay đổi trong nhất quán. Điều đó có nghĩa là dù tác giả có cố gắng để viết khác đi so với thời kì khá thành công ở thể loại truyện ngắn nhưng tác phẩm này vẫn in đậm dấu ấn của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là cách viết chậm rãi, nhẩn nha mà xoáy sâu, phơi bày hiện thực một cách chân thật…Dù đã thừa nhận bỏ cánh đồng để đến với dòng sông nhưng sự tìm tòi để đổi mới này có đôi chỗ hoàn toàn chưa thuyết phục được bạn đọc bởi lẽ hành trình trong văn chương không bao giờ có điểm kết mà đây chỉ là bước khởi đầu trong sự đổi mới của Nguyễn Ngọc Tư.
     2.3.2. Dị biệt
       2.3.2.1. Nội dung
        - (3) Bên cạnh sự đồng tình, chúng tôi không nhất trí khi Trần Ngọc Sinh cho rằng “Sông” là một sự đổi mới toàn diện của Nguyễn Ngọc Tư. Tuy Sông” là một bứt phá quan trọng và dũng cảm của Nguyễn Ngọc Tư nhưng người đọc vẫn nhận ra đây là của Nguyễn Ngọc Tư. Chất “đặc sản” của cô vẫn còn đó, dù rằng nó không còn là đặc sản của chỉ miền Nam, mà là đặc sản của một thế hệ nhà văn mới, tìm tòi và thử nghiệm, nhưng không phiêu lưu vô lối, bởi vì đặc sản ấy luôn luôn bám chặt gốc rễ quê huơng của cô. Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Tư vẫn vậy trong cách viết, nhẩn nha không đi đâu mà vội, nhẩn nha mà xoáy sâu, nhẩn nha mà tinh con mắt sắc cái nhìn ở chi tiết, nhẩn nha mà bất ngờ ở câu ở chữ của văn, sự nhẩn nha có lúc trễ nải, quẩn quanh.” Người đọc yêu mến văn phong của Nguyễn Ngọc Tư ở những truyện ngắn, tản văn đã xuất bản thì ở tiểu thuyết này vẫn vậy: Gãy gọn, nhẹ nhàng, khoan thai nhưng không kém phần sắc sảo. Điểm hấp dẫn của “Sông” có lẽ là cái duyên riêng của Nguyễn Ngọc Tư, dù cố thay đổi vẫn không mất đi.
        - (4) Chúng tôi nghĩ rằng Hàm Châu nhận xét các nhân vật hơi lạ thường, kỳ dị, không phổ quát trong xã hội; một tài năng như Nguyễn Ngọc Tư nên viết tươi sáng hơn là chưa thỏa đáng. Các nhân vật trong tác phẩm tuy có chút lạ thường nhưng không phải là không phổ quát trong đời sống. Hành trình đi tìm lại con người thật của Ân, khao khát hạnh phúc của Xu, sự nổi loạn của San, vẻ buông xuôi của Tú và niềm riêng của biết bao nhiêu con người trong tác phẩm cũng có thể là của chung cho những thân phận người trong thế giới hôm nay. Những kiếp người “trôi dạt” trên dòng sông Di, những sự “biến mất” trong lòng sông Di. Biết đâu, họ lại là những người từ bên ngoài hiện thực chui vào trang sách ? Có thể nói rằng mỗi thân phận của một nhân vật cũng chính là số phận của con người trong xã hội thời nay. Theo chúng tôi, một nhà văn tài năng thì ngòi bút phải đi sâu khai thác những mặt còn khuất lấp trong đời sống chứ không thể viết bằng “sự mơ mộng, tưởng tượng về một thế giới chưa từng tới, về những con người chưa từng thấy, những con người chưa từng gặp hoàn toàn không vì một trải nghiệm nào”. Do vậy, tài năng của nhà văn không nhất thiết là sự “tươi sáng” trên từng trang văn. Chúng tôi cũng thừa nhận nhìn chung toàn bộ tiểu thuyết lan tỏa hơi văn buồn nhưng đâu đấy vẫn có nét hóm hỉnh của câu chữ và cách lựa chọn vấn đề gần gũi trong đời sống nên không hoàn toàn ảm đạm như lời nhận xét của Hàm Châu. Tác giả từng thổ lộ với độc giả trong buổi ra mắt quyển tiểu thuyết: “Tính thời thượng của giới trẻ hiện nay là thích đi “phượt” vì thế tôi đã tìm cách đưa vào tác phẩm. Ngoài ra vấn đề đồng tính cũng được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, hai yếu tố này chỉ là cái vỏ cho Sông”. Bởi cách viết của tôi hơi bi quan và buồn. Chính vì thế mà tôi đã phải tìm cách “pha loãng” nó bằng những chi tiết “thời thượng” để độc giả được thư giãn”.
       2.3.2.2. Nghệ thuật
        - (6) Về nhận xét của Trần Hữu Dũng, chúng tôi cho rằng tiểu thuyết “Sông”, Nguyễn Ngọc Tư đã mệt nhọc để gán ghép cho tác phẩm cái luồng tư tưởng nào đó. Nếu thật sự là nhà văn tài năng, Nguyễn Ngọc Tư sẽ làm cho người đọc nhẹ nhàng nhận ra ngay điều mình muốn truyền tải trong và sau khi đọc tác phẩm. Cái chất Nam bộ trong văn của Nguyễn Ngọc Tư quả thật rất tuyệt vời, nhưng để gọi là tầm kỹ thuật thì có vẻ đã quá đề cao nhà văn. Nguyễn Ngọc Tư cần có thời gian và sự trải nghiệm nhiều hơn nữa mới có thể cho ra một tác phẩm tuyệt hay như “Cánh đồng bất tận”. Chúng tôi khẳng định như vậy không có nghĩa là phủ nhận tài văn của Nguyễn Ngọc Tư mà nhận ra được có vẻ bước đi chưa vững chắc của nhà văn trong thể loại tiểu thuyết, “Sông” là một ví dụ.
  3. Kết luận
         “Sông Di là dòng sông của những mảnh đời cỏn con”. Dòng sông Di là nơi bấu víu cho những kẻ không còn hi vọng ở chính mình. Đó là thân phận những con người nhỏ bé sống bám lay lắt vào sông, vô tình làm tổn thương sông và phải hứng chịu những trả thù tàn khốc của sông. Nhưng chính sông Di cũng mang trong mình những vết thương. Vết thương của sông Di cũng là vết thương của những kiếp người nhỏ bé sống bám dọc con sông ấy. Nguyễn Ngọc Tư là một thư ký tận tụy, cần mẫn trên từng trang tiểu thuyết về nhiều vấn đề nhức nhối của xã hội như bạo hành gia đình, bình đẳng giới, suy đồi đạo đức…Nguyễn Ngọc Tư viết như người ngoài cuộc, hờ hững, viết nhẹ như không nhưng chính cái tưởng chừng là “vô chiêu” mà có sức nặng không cùng. “Sông” khi vừa ra mắt đã nhận được sự quan tâm nồng nhiệt của người đọc ở sự đồng thuận, cũng không lắm ý kiến trái chiều. Song Nguyễn Ngọc Tư luôn là chính mình và luôn ý thức rất rõ về trách nhiệm của người cầm bút, về nghề văn “một nhà văn thì luôn phải đi tới, bỏ những hào quang lại sau lưng” vì đó là một hành trình dài vô tận…