Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

Vấn đề tiếp nhận tiểu thuyết “Sông” của Nguyễn Ngọc Tư - nhóm Mai, Hằng, Hương

  1. Mở đầu
         Trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới, khoảng mười năm đầu của thế kỉ XXI, người yêu văn chương không thể không biết đến nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Tuy là một cây bút trẻ về tuổi đời lẫn tuổi nghề nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã hình thành một phong cách riêng độc đáo. Nguyễn Ngọc Tư có những bước tiến khá tự tin và vững chắc vào làng văn Việt Nam. Với Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn phải luôn là chính mình trên từng trang văn cho dù có những dư luận thậm chí trái chiều. Sự quan tâm của người đọc và giới phê bình đến tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư được thể hiện ở bài viết trên một số báo, tạp chí và internet. Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư khi ra đời đều được đón đọc, quan tâm đồng thời cũng tạo được những cuộc tranh luận khá thú vị trên văn đàn. “Sông”, tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư, được đón nhận trong trường hợp như thế. Nguyễn Ngọc Tư cho rằng: “Cây tới mùa nó thay lá, quả tới mùa nó chín. Mọi người dường như muốn một thứ quả cứ xanh mãi. Điều đó hơi trái tự nhiên, như thể một dòng sông không chảy được vậy đó. Nhà văn đã đi rất là xa, mà bạn đọc cứ ngồi mãi một chỗ cũ, cứ mong chờ như mình vẫn còn ở đó, trong khi một nhà văn thì luôn phải đi tới, bỏ những hào quang lại sau lưng”. Với Nguyễn Ngọc Tư nghề văn là một nghề sáng tạo, một hành trình dài vô tận…
  2. Nội dung
   2.1. Giới thiệu tác giả, sơ lược về tác phẩm
    2.1.1. Tác giả
     2.1.1.1. Đôi nét về con người và sáng tác
      - Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Khi mới học hết lớp chín, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên chị phải nghỉ học. Hiện nay, Nguyễn Ngọc Tư cùng gia đình cư ngụ tại thành phố Cà Mau, làm phóng viên cho tạp chí Văn nghệ Cà Mau và hội văn học nghệ thuật Cà Mau. Trong đời thường, Nguyễn Ngọc Tư có vẻ ngoan hiền, thích cuộc sống giản đơn nhưng nội tâm phức tạp.
      - Tác phẩm đầu tay là tập kí sự “Nỗi niềm sau cơn bão dữ” với giải ba báo chí toàn quốc năm 1997 đã chính thức đưa Nguyễn Ngọc Tư vào nghề văn. Nguyễn Ngọc Tư là nữ nhà văn trẻ của Hội nhà văn Việt Nam. Nhà văn đã đạt nhiều giải thưởng như giải nhất cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần II (năm 2000) với tác phẩm “Ngọn đèn không tắt”, giải B Hội nhà văn Việt Nam (năm 2001) cho tập truyện “Ngọn đèn không tắt”. Tác phẩm nổi tiếng nhất là “Cánh đồng bất tận” đã nhận được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2006 và được đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình dựng thành phim cùng tên. Năm 2008, Nguyễn Ngọc Tư nhận giải thưởng văn học các nước Đông Nam Á…
     2.1.1.2. Đặc điểm sáng tác

      - Trong dòng chảy chung của văn xuôi đương đại, Nguyễn Ngọc Tư đã tìm cho mình một lối đi riêng, một phong cách riêng nên để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Cũng như nhiều nhà văn nữ khác, thế mạnh của Nguyễn Ngọc Tư là nói về nỗi đau, về thân phận những người phụ nữ trong cuộc sống hiện đại. Bằng sự thấu hiểu, cảm thông, Nguyễn Ngọc Tư ý nhị đưa ra những khao khát khôn nguôi về bến bờ hạnh phúc, sự bình yên trong tâm hồn mỗi con người.

      - Cho dù viết về mảng nào, lĩnh vực nào, thể loại nào với Nguyễn Ngọc Tư, điều quan trọng vẫn là cảm xúc. Cảm xúc thật từ đời sống chỉ có được khi thực sự hòa nhập với đời sống. Nguyễn Ngọc Tư luôn có cách khai thác hiện thực đời sống một cách có chiều sâu nhất. Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Ngọc Tư lấy cảm hứng từ cuộc sống với số phận của những nhân vật nhỏ bé, những người nông dân lam lũ, những người nghệ sĩ nghèo khổ bất hạnh, những đứa trẻ đáng thương, những người đàn bà tội nghiệp…ở chính vùng quê Nam bộ. Chính số phận trớ trêu của họ đã tạo cảm xúc cho Nguyễn Ngọc Tư trong sáng tác.

      - Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút độc đáo đậm chất Nam bộ. Đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, người đọc có cảm giác nhà văn chẳng đi đâu xa ngoài vùng đất của mình. Cũng chính bởi Nguyễn Ngọc Tư sống và yêu hết mình với mảnh đất Cà Mau và cũng không muốn đi xa khỏi nó. Ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư sử dụng trong tác phẩm của mình chủ yếu là ngôn ngữ của người dân sống ở thôn quê, ruộng vườn cho nên cách hành văn, diễn đạt nôm na dễ đọc, dễ hiểu. Giọng văn dung dị mà sâu lắng, trữ tình nhẹ nhàng, câu văn mềm mại chan chứa yêu thương…

    2.1.2. Sơ lược về tác phẩm
       “Sông” là câu chuyện của một lớp người trẻ hiện đại đi tìm cội nguồn và ý nghĩa tồn tại của mình ngay trên chính quê hương mình. Nhân vật chính tên Ân - một người vác ba lô xuôi dọc sông Di, bạn đồng hành của cậu là những người gặp tình cờ trên mạng, chỉ biết nhau vỏn vẹn qua cái tên: Xu và Bối. Ân có cha, có mẹ nhưng cũng như một đứa trẻ sinh ra trong lạc loài, vô thừa nhận, nhớ mãi cú xô ngã chối từ cay nghiệt của bà nội. Xu lớn lên trong trại trẻ mồ côi. Và Bối khao khát tình thương cũng thích chơi trò biến mất chỉ để được tìm kiếm. Ba con người đầy sức trẻ nhưng cũng đầy mất mát. Họ đã gặp nhau trong hành trình khám phá sông Di và khám phá chính bản thân mình. Mỗi người một gương mặt, một số phận nhưng họ cùng có khao khát được sống tự nhiên như một con sông, được chảy tự nhiên như thế. Những tâm hồn thương tổn đi dọc sông Di gặp và chứng kiến những mảnh đời khác, thăng trầm như sông, mong manh như sông. Những con người lần lượt biến mất để lại nỗi ám ảnh theo dọc sông Di...
   2.2. Những ý kiến khác nhau về tác phẩm
     2.2.1. Nội dung
      - (1) Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, một trong số ít người tiếp cận bản thảo “Sông” sớm nhất, nhận xét: “Ở Sông vẫn là không gian sông nước quen thuộc trong những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Sông là chuyển động, là dòng chảy. Với việc cho nhân vật ra đi men theo dòng sông, Tư đã làm được hai việc: vừa phản ánh hiện thực, kể, tả về những vùng đất dọc hành trình vừa men theo dòng chảy tâm trạng để nhân vật bộc lộ mình.”
      - (2) Trong bài viết “Sông và hành trình “bản ngã” của Nguyễn Ngọc Tư”, Hoài Phương nhận định: “Văn chị có cái nồng hậu của con người miền Nam, cái nồng hậu không đơn giản chỉ là tỏa ra từ hệ thống từ địa phương được dùng dày đặc, mà sâu hơn, nó tỏa ra từ một cái nhìn không bao giờ vơi nỗi thương cảm với thân phận con người. Dù ở đây chị có gồng lên, có làm khác đi so với cái giọng của thời kỳ truyện ngắn, nhưng cái thương cảm ấy vẫn lúc chìm sâu lúc phập phồng trên mạch đập của dòng văn.”
      - (3) Nhà biên tập Trần Ngọc Sinh rất xác đáng khi nhận xét ngắn gọn về “Sông” như sau: “Sông - Tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư là một sự đổi mới toàn diện của chính cô. Đẹp. Đáo để. Trần tục và hư ảo. Truyện kết thúc bằng dấu chấm hỏi về số phận một con người - Không hề do dự, cô đã đẩy cái mầm ý tưởng vừa nhú lên sang tay người đọc, để họ nuôi dưỡng chúng bằng trải nghiệm, qua việc đọc cuốn sách này.”
      - (4) Nhà báo Hàm Châu khẳng định: “Đọc văn Nguyễn Ngọc Tư không thấy lóe lên chút ánh sáng yêu đời nào. Trong Sông, tôi không chia sẻ được tâm hồn với nhân vật nào. Ảm đạm quá. Các nhân vật hơi lạ thường, kỳ dị, không phổ quát trong xã hội. Một tài năng như Nguyễn Ngọc Tư nên viết tươi sáng hơn.”
      - (5) Trong bài viết “Nguyễn Ngọc Tư và Sông”, Trần Hữu Dũng nêu lên nhận định: “Bằng cách đưa ra những địa danh hư cấu, có lẽ Nguyễn Ngọc Tư không muốn người đọc liên tưởng đến những gì dính líu đến những địa danh có thật. Cô muốn bứng rễ người đọc để đưa vào khung cảnh táo bạo của câu chuyện. Nhiều tác giả đã dùng thủ thuật này, nhưng tôi nghĩ Nguyễn Ngọc Tư đã không tận dụng những tiềm năng mà thủ thuật này tạo cho người viết. Bởi lẽ, ở những tác giả khác thì một địa phương hư cấu được cả một khối cư dân làm nền cho câu chuyện, với cá tính và lịch sử đặc biệt của họ, còn sông Di của Nguyễn Ngọc Tư chỉ là...sông Di (dù cô có cho thêm vài chi tiết hư cấu về lịch sử, nhân chủng của vùng ấy). Đó là một hư cấu tiêu cực (không muốn độc giả liên tưởng đến địa danh quen thuộc nào khác) hơn là tích cực (với những cái đặc trưng ở nơi ấy). Nguyễn Ngọc Tư mời chúng ta theo cô đến miền hư cấu ấy của cô, nhưng ta không thấy gì mới lạ ở đó, và tự hỏi: Sao chúng ta không “ở nhà”, một địa danh quen thuộc nào đó ? Với những địa danh hư cấu, trong trường hợp này, tôi nghĩ Nguyễn Ngọc Tư đã gây cho độc giả một sự “rối trí” không cần thiết. Vì sông Di không đem lại gì cho câu chuyện, những đoạn về địa lý của sông ấy (gần sông nào, núi nào, thành phố nào...) có hơi thừa, không có một tác dụng gì ở người đọc.”
     2.2.2. Nghệ thuật
      - Cũng trong bài viết “Nguyễn Ngọc Tư và Sông”, Trần Hữu Dũng nêu nhận định như sau:
      ö (6) “Tuy là tiểu thuyết đầu tay nhưng ai cũng sẽ thấy rằng đây không phải là tác phẩm của một ngòi bút mới vào nghề. Về nhiều mặt, có một sự tiến bộ rõ rệt về kỹ thuật viết, và hiển nhiên là (như hầu hết tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư) một sự cẩn trọng tột bực trong văn phong, tỉ mỉ trong chữ nghĩa, và những nhận xét cực kỳ tinh tế về những sinh hoạt đời thường. Có những câu thật hay như “Ham muốn tắt đi rất nhanh, nhưng rạo rực như cái đuôi. Quét lướt thướt trong tâm tưởng”. Thậm chí, có nhiều đoạn đẹp đến nỗi người đọc có thể thất vọng là câu chuyện chưa xứng tầm kỹ thuật của cô.”
      ö (7) “Dùng hình tượng một con sông để “xỏ xâu” các câu chuyện lại với nhau không phải là một thủ thuật mới. Nhiều nhà văn sử dụng rất công hiệu kỹ thuật này trong không ít tác phẩm kinh điển. Tuy nhiên, một người đọc khó tính (hay kỳ vọng nhiều hơn ở Nguyễn Ngọc Tư) có thể tiếc rằng cô đã không tận dụng sự súc tích mà hình tượng ấy có thể cung cấp cho cô, dù cô đã khai thác khá nhiều.”
      - (8) Trong bài viết “Sông và hành trình “bản ngã” của Nguyễn Ngọc Tư”, Hoài Phương nhận định: “Có khi giọng văn tỏ ra tiết chế, hờ hững, phớt đời với những câu lược hết tính từ, lại có những khi lũ tính từ mà Ân chối bỏ như thể chối bỏ bản tính “đàn bà” trong con người mình ấy tràn ra những câu văn dài, nhấm nhẳng day dứt, dằn vặt và cũng không ít chỗ thật nồng nàn. Cũng như những chi tiết ảo mang tính biểu tượng, những chi tiết về tính dục gây ám ảnh đôi khi chị hơi lạm dụng khiến cuốn tiểu thuyết đôi chỗ quá rậm rạp, “nhiều đạm”, mà giá tiết chế hơn chắc sẽ làm chủ tốt hơn nhịp điệu tác phẩm. Điều ấy cũng có thể là một phương thức diễn tả nhân vật đang đi tìm chính mình, hay chính giọng văn ấy cũng đang định hình chính mình, trong một hành trình văn chương vốn dĩ luôn đòi hỏi sự thay đổi trong nhất quán và không bao giờ có điểm kết.”
      - (9) Cao Việt Dũng trong “Nguyễn Ngọc Tư: Sông và những cuộc bỏ đi” cho rằng: “Một tiểu thuyết không nhất thiết bắt người đọc chú tâm mọi lúc, nó không cần quá nhiều “đạm”, nó dung chứa được những đoạn chùng xuống, chậm lại, thậm chí lê thê, không cần quá nhiều cảm nghĩ, quá nhiều miêu tả trộn trong cảm giác. Điều này liên quan tới một khái niệm, tempo (nhịp). Chính vì xử lý không tốt tempo nên Nguyễn Ngọc Tư không hẳn là thành công ở đoạn cuối, lẽ ra phải lên cao trào khi các nhân vật đến được cái hồ Thiên huyền bí. Vài chương cuối cùng không đủ độ chùng xuống nên đi đến một cái kết tương đối lộ liễu, dễ đoán.”
   2.3. Quan điểm của nhóm
     2.3.1. Tương đồng
      2.3.1.1. Nội dung
      - (1) Về nhận xét của Phạm Xuân Nguyên, chúng tôi đồng tình “Sông” là không gian sông nước quen thuộc; trong tác phẩm, tác giả vừa phản ánh hiện thực vừa để nhân vật bộc lộ mình.
       ö Trong hầu hết tác phẩm của mình, Nguyễn Ngọc Tư luôn thể hiện đậm nét đời sống vùng sông nước gắn liền với con người Nam bộ. Thế nhưng trong tác phẩm này, nhà văn chỉ lấy bối cảnh là không gian sông nước (con sông Di) chứ không đi sâu vào việc khắc họa đời sống của con người ở vùng sông nước. Vì theo tác giả, “Sông chỉ là bối cảnh, một dòng chảy nửa thực, nửa mang tính tượng trưng. Đây là cái cớ để những nhân vật của tôi bước vào cuộc phiêu lưu của họ, kể chuyện đời họ và những người sống ở hai bên bờ”. Đó là một dòng sông hư cấu nhưng lại chảy qua những bãi bồi phù sa, ghềnh thác để chứng kiến bao thân phận con người.
       öSông” đã phản ánh được hơi thở của cuộc sống. Nguyễn Ngọc Tư đã ghi chép khá đầy đủ nhiều mảng đề tài xã hội được dư luận nhắc đến hàng ngày như đồng tính, bi kịch gia đình, ngược đãi trẻ em, tôn giáo, tệ nạn xã hội (ma túy, buôn lậu, dân đào vàng, lâm tặc, mãi dâm, dân giang hồ xử nhau…), suy đồi đạo đức, ô nhiễm môi trường, lũ lụt, lạm phát lễ hội và tượng đài, báo mạng lá cải…đến những vấn đề chính trị nhạy cảm cũng thấp thoáng như tranh chấp quyền lực, hòa hợp dân tộc, chủ quyền biển đảo, quan hệ quốc tế…và tất nhiên là phải kể đến yếu tố sex.
       ö Nhà văn phản ánh cái bên ngoài, cái bề mặt là để khơi vào, chạm tới cái bề trong, cái bề sâu của con người. Tác giả để cho từng nhân vật trôi đi trong một thực tại đầy hư ảo của kiếp người với ám ảnh “tồn tại hay không tồn tại, đó mới là vấn đề”. Những mảnh đời những kiếp sống, đời người đời sông, đời của những khúc sông, đời của những huyền kỳ dọc con sông dằng dặc. Mỗi người đều có những thôi thúc sâu xa mà chính họ cũng không biết chính xác nó là gì. Nỗi thất vọng với người tình đồng tính là cái cớ để nhân vật Ân làm một cuộc soi lại chính mình. Hành trình đi ngược sông Di của Ân cũng là hành trình đào xới lại tâm thức, lật lại từng kỷ niệm, những “tình tiết” trong đời. Người cha chưa bao giờ là cha theo mọi nghĩa, kể cả điều sâu xa nhất là cảm giác huyết thống với con người ấy Ân cũng không hề có. Với mẹ, Ân là nơi để trút những kỳ vọng, yêu thương, là chiếc gương mà bà cần để ngày ngày soi ngắm bản thân, chứ không phải như là chính con người cậu. Cuộc sống của sông là sự chảy trôi, cũng như đời người, rốt cuộc tìm đến bản chất tận cùng ta chỉ thấy sự vô thường. Những dòng sông bị lấp nhưng dòng chảy vẫn miệt mài ở dưới tầng sâu dần bào mòn lòng đất, cho đến một thời điểm nào đó bật dậy thành những cuộc lở sông kinh hoàng. Và bản chất con người cũng vậy. Sự vặn xoắn trong tâm thức con người đi ngược với bản chất tự nhiên, chối bỏ nó hoặc che đậy nó, để có thể sống yên ổn trong cái gọi là xã hội con người đều là cội nguồn bi kịch. Với ý nghĩa đó, “Sông” không hề nhẹ nhàng nhưng nó lại như đang ẩn náu trong cái thời đại này.
      - (2) Hoài Phương khá tinh ý khi cho rằng Nguyễn Ngọc Tư luôn cái nhìn không bao giờ vơi nỗi thương cảm với thân phận con người dù cách thể hiện có khác hơn so với trong truyện ngắn. Bởi lẽ cuộc sống này chứa đựng quá nhiều thân phận, quá nhiều nỗi đau và cả những oan khiên “Nếu mỗi biến cố là một sợi len, người ta có thể dệt thảm cho cả sân bóng”. Do vậy, trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư, yêu thương đã thành lẽ sống, niềm vui, niềm hạnh phúc. Chính bởi thế, hầu hết các nhân vật trong tác phẩm luôn khát khao yêu thương và được yêu thương. Trong tiểu thuyết này, Nguyễn Ngọc Tư cho rằng không chủ ý viết về đồng tính. Nhưng những trang viết về tình yêu đồng tính của nhân vật chính Ân với Tú là những trang viết đẹp. Nhà văn đã dành nhiều cảm tình đặc biệt cho các nhân vật của mình. Nhân vật Tú không có mặt trong chuyến du hành lang thang theo dòng sông Di nhưng những hồi ức tình yêu của hai người trong những lúc gần gũi và những tin nhắn “vói” theo của Tú được tác giả mô tả cho thấy đây là một mối tình đẹp, hay có thể nói khác là “bình thường” so với các mối tình đã tồn tại trên thế gian này: cũng quan tâm, yêu thương, giận hờn, trách móc, nhớ nhung…“Báo nói Ân đi sông Di. Không ngờ Ân quyết liệt vậy. Chúng mình đâu phải chấm dứt ở đây ?”, “Ăn ngủ có vất vả lắm không ?”, “Coi ảnh trên mạng, thấy Ân đã đen nhiều. Đứt ruột !”, “Ân ơi !” (nhắn bốn lần cùng một nội dung), “Tú ớn ói việc phải sống như con người khác. Ân giúp Tú tìm lại chính mình đi.”, “…Tú mà không cưới thì cậu cũng sẽ bận nấu nướng, bận lấy đùi làm gối, vít đầu Tú xuống để nhá tai Tú giữa hai hàm răng sực mùi ổi chín của mình, vờn lưỡi mình lên khóe môi Tú, nơi mà cậu cho rằng hàng vạn lời hay ho nương náu ở đó trước khi thành tiếng nói…”. Là người giàu cảm xúc và coi trọng cảm xúc trong sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư luôn níu giữ lòng tin yêu của con người. Nguyễn Ngọc Tư nếu có viết về cái ác cũng là một cách để tôn vinh cái thiện và ca ngợi tình yêu thương con người, để con người biết sống tốt đẹp, nhân ái hơn.
      - (3) Chúng tôi đồng ý khi Trần Ngọc Sinh cho rằng “Sông” có nhiều chi tiết trần tục và hư ảo và truyện kết thúc bằng dấu chấm hỏi về số phận một con người.
       ö Chúng tôi hiểu từ “trần tục” ở mức độ là Nguyễn Ngọc Tư có cái nhìn vấn đề rất thực tế, rất đời thường như vốn có trong cuộc sống. Trong “Sông”, lần đầu tiên Nguyễn Ngọc Tư đề cập đến một chủ đề khá thời sự và nhạy cảm là đồng tính. Nhưng nhà văn chỉ tiếp cận nó về mặt tinh thần, về nội tâm con người, về những suy nghĩ và dằn vặt của nhân vật chứ không hoàn toàn khai thác những gì thuộc về thân xác và nhục cảm. Nguyễn Ngọc Tư từng thổ lộ rằng: “Khi viết Sông, nhiều bạn cũng đã hỏi tôi tại sao không đi sâu vào sex, nhục dục, nhưng tôi nghĩ đồng tính không chỉ có sex. Họ cũng có ẩn ức khác, những mối quan tâm xã hội, có đời sống rất bình thường. Viết về đồng tính đâu cứ phải sex. Khi nhà văn đào sâu tâm tư, ẩn ức của họ cũng rất hấp dẫn”. Trong tiểu thuyết này, ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư luôn dằn vặt, trăn trở về một cuộc sống được luôn là chính mình của một kiếp người. Như vậy, tác giả không có tham vọng khảo sát thế giới người đồng tính mà chỉ muốn chọn một mẫu nhân vật có đời sống khá phức tạp. Bởi lẽ, còn dạng nhân vật nào phức tạp, vật vã đấu tranh với bản năng và lý trí, với chính mình và với cái nhìn chật chội của xã hội như một người đồng tính không ? Sinh ra có vẻ là người này, nhưng sâu thẳm trong họ là người khác, họ vùng vẫy làm sao để sống như mình muốn, như chính mình ?
       ö Cái hiện thực trong “Sông” không hoàn toàn là hiện thực nhưng chưa bước hẳn sang bên kia lằn ranh ngăn cách với cái hư ảo, bầu không khí mà cuốn tiểu thuyết tạo ra dường như là một cái gì đó “từa tựa sự thật”. Chẳng hạn, những tên riêng Mù Sa, Tầm Sương hoang vắng như lôi về từ một miền hư ảo, nhưng dãy núi Thượng Sơn thì hao hao Trường Sơn, sông Mê Giang nhất định gợi tới Mê Kông, Vũng Thuyền thì âm hưởng Vũng Tàu và vẫn nhiều chi tiết không có chút đổi thay nào như phố Lý Thường Kiệt, tên người như Nguyễn Trãi, Quang Trung hay Nguyễn Ánh…Bên cạnh đó, những địa danh trong tác phẩm rất lạ lẫm và xa xôi như Băng Khâu, Mù Sa, Ể Ưu, Di Ổ…Tiếp sức cho bầu không khí ảo là những sách vở bịa ra như cuốn “Ba tháng ở miền Hạ” của mấy nhà truyền giáo người Bồ, di cảo “Sông nước miền Hạ” của Mai Nam Tư hay “Những làng nghề thủ công châu thổ sông Di”, “Di lưu ký” rồi “Tương tàn ngoại sử” và nhất là quyển ghi chép dày 186 trang của một vị tu sĩ người Pháp, trong đó chín trang rưỡi liên quan đến thượng nguồn sông Di…Không khí đặc trưng của miền Tây vẫn tiếp tục rõ nét trong “Sông” cộng thêm một yếu tố hư ảo có tính chất ma quái mà ta như thể bắt gặp được ở bất kỳ khuôn mặt và khung cảnh nào. Người già, trẻ nhỏ, đàn ông đàn bà tất cả xuất hiện thoáng qua và vụt biến mất. Không phải là một người mà chỉ cần một đêm sạt lở thì cả một làng bất ngờ sẽ bị cuốn đi rồi mất tích mau chóng để lại nỗi ám ảnh theo dọc sông Di. Những cái lu tắm chung nam nữ như hội Tắm Lu chợ Thương tổ chức vào ngày Rằm tháng Hai những năm chẵn, một dạng chợ tình Khâu Vai miền sông nước. Có ý kiến cho rằng đây là một tiểu thuyết núp bóng du ký, kiểu vừa đi vừa kể chuyện, sẽ có những vùng đất trôi qua luôn, những con người không còn gặp lại. Chính yếu tố hư ảo đã khắc họa nên điều này.
        ö Nếu người đọc trông mong một cái kết “có hậu” sẽ hụt hẫng vì không có một kết thúc êm đẹp. Thậm chí những dòng cuối còn gieo vào một nỗi hoang mang, một hoài nghi như thể một làn khói hư ảo bỗng bao trùm lên toàn câu chuyện. Không có kết cục tốt đẹp mà chỉ có những biến dịch thuận theo với tự nhiên. Có lẽ cuộc sống là vậy, ta hiểu nó đến cùng để mà chấp nhận nó, hay chấp nhận nó để có thể hiểu nó. Và con người cũng vậy, hẳn sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều khi chấp nhận cái mình đang hiện hữu, đang biến đổi không ngừng…Cuối cùng, sau rất nhiều năm tìm kiếm, San lựa chọn cách ngủ mãi mãi. Ánh lựa chọn biến mất cùng một thằng nhóc đã đeo đuổi cô suốt mấy năm ròng. Tú buông xuôi. Trong số các nhân vật, có lẽ số phận của nhân vật chính Ân sau cùng mới để lại nhiều day dứt nhất. Phía cuối hành trình, cậu cũng biến mất giữa dòng sông như thể chưa từng hiện hữu. Một cuộc tìm lại hình hài khắc nghiệt khi cậu không có quyền thay đổi giới tính, không có quyền lựa chọn hạnh phúc và nhen nhóm trong trái tim yêu thương ấy là sự ghen tị, ích kỷ cũng nằm ở đỉnh điểm không thể tách rời. Sông chứng kiến tất cả và cũng cuốn đi tất cả.
      - (4) Đúng như lời nhận xét của nhà báo Hàm Châu, trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đa phần là buồn, bi quan. Tuy nhìn tổng thể, tiểu thuyết này mang hơi văn buồn, có màu sắc ảm đạm nhưng chính vì điều đó đã tạo nên một bản sắc văn chương rất riêng của Nguyễn Ngọc Tư. Trong “Sông” cũng thế, đó là niềm riêng của biết bao nhiêu con người: hành trình đi tìm lại con người thật của Ân, khao khát hạnh phúc của Xu, sự nổi loạn của San, vẻ buông xuôi của Tú. Dù giọng văn ở tiểu thuyết này đã cố sắc lạnh hơn với nhịp văn nhiều chỗ dứt khoát hơn nhưng đều không thể thay đổi hơi văn buồn. Dù nhà văn “bỏ lại cánh đồng” đến với “Sông”, từ truyện ngắn sang tiểu thuyết nhưng có một thứ vẫn giữ lại, đó là giọng văn trầm buồn, hơi văn bảng lảng.
      - (5) Chúng tôi khá đồng tình với quan điểm này của Trần Hữu Dũng, bởi qua tác phẩm, Nguyễn Ngọc Tư đã không dùng địa danh thật. Có lẽ, do sự cố “Cánh đồng bất tận”, nhà văn không muốn lấy địa danh thật nữa. Nhưng theo chúng tôi viết như vậy là không đặc sắc, không cuốn hút. Nếu nhà văn hư cấu thì cũng phải cho người đọc cảm nhận được dụng ý nghệ thuật của mình, còn trong tiểu thuyết này, địa danh đưa vào ít mang tính nghệ thuật. Qua tác phẩm, người đọc cũng phải cảm thấy mình ở đâu đó trong tác phẩm, hay hiện thực hiện ra trước mắt, còn trong tiểu thuyết “Sông”, tác giả hư cấu nhiều quá, ít hiện thực nên người đọc cảm nhận được nét không thật. Điều Nguyễn Ngọc Tư muốn chuyển tải qua con sông Di thật sự mờ nhạt. Tác giả tả có vẻ hay nhưng thật sự hơi thừa, không tác dụng gì ở người đọc.

       2.3.1.2. Nghệ thuật
        - (7) Trần Hữu Dũng khá chính xác khi cho rằng Nguyễn Ngọc Tư không tận dụng sự súc tích mà hình tượng ấy (hình tượng một con sông) có thể cung cấp. Con sông Di trong tiểu thuyết này huyền ảo mà cụ thể, không thực nhưng thật. Nó là một nhân vật bao trùm, cuốn trôi cả Ân và hai người bạn đồng hành, cuốn trôi cả bao cuộc đời người bên sông vừa trôi vừa ngoái nhìn, vừa trôi vừa chìm. Trải dài con sông Di là những câu chuyện, những mảnh đời khác nhau. Có vẻ trong tiểu thuyết này, Nguyễn Ngọc Tư đã không tận dụng tốt hình tượng con sông không giống như trong “Cánh đồng bất tận”, hình tượng cánh đồng bất tận đã được Nguyễn Ngọc Tư sử dụng rất thành công. Qua tác phẩm, dù Nguyễn Ngọc Tư đã cố gắng để những câu chuyện của mình liên quan đến dòng sông Di nhưng nó vẫn rời rạc và thiếu tính điển hình.
        - (8), (9) Hoài Phương Cao Việt Dũng đều có một điểm chung khi nhận xét về giọng điệu trong tiểu thuyết này. Như chúng tôi đã trình bày, “Sông” là tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư. Bên cạnh sự thành công nhất định, đôi chỗ trong tiểu thuyết này khiến người đọc chưa tiếp nhận một cách thỏa đáng như cách viết đều đều thay vì cách kết thúc cần cao trào để gây bất ngờ hay nhiều câu văn dài dòng xen lẫn cảm xúc của tác giả…Tuy nhà văn có một sự bứt phá nhưng chưa toàn diện. Tác phẩm là minh chứng cho một sự thay đổi trong nhất quán. Điều đó có nghĩa là dù tác giả có cố gắng để viết khác đi so với thời kì khá thành công ở thể loại truyện ngắn nhưng tác phẩm này vẫn in đậm dấu ấn của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là cách viết chậm rãi, nhẩn nha mà xoáy sâu, phơi bày hiện thực một cách chân thật…Dù đã thừa nhận bỏ cánh đồng để đến với dòng sông nhưng sự tìm tòi để đổi mới này có đôi chỗ hoàn toàn chưa thuyết phục được bạn đọc bởi lẽ hành trình trong văn chương không bao giờ có điểm kết mà đây chỉ là bước khởi đầu trong sự đổi mới của Nguyễn Ngọc Tư.
     2.3.2. Dị biệt
       2.3.2.1. Nội dung
        - (3) Bên cạnh sự đồng tình, chúng tôi không nhất trí khi Trần Ngọc Sinh cho rằng “Sông” là một sự đổi mới toàn diện của Nguyễn Ngọc Tư. Tuy Sông” là một bứt phá quan trọng và dũng cảm của Nguyễn Ngọc Tư nhưng người đọc vẫn nhận ra đây là của Nguyễn Ngọc Tư. Chất “đặc sản” của cô vẫn còn đó, dù rằng nó không còn là đặc sản của chỉ miền Nam, mà là đặc sản của một thế hệ nhà văn mới, tìm tòi và thử nghiệm, nhưng không phiêu lưu vô lối, bởi vì đặc sản ấy luôn luôn bám chặt gốc rễ quê huơng của cô. Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Tư vẫn vậy trong cách viết, nhẩn nha không đi đâu mà vội, nhẩn nha mà xoáy sâu, nhẩn nha mà tinh con mắt sắc cái nhìn ở chi tiết, nhẩn nha mà bất ngờ ở câu ở chữ của văn, sự nhẩn nha có lúc trễ nải, quẩn quanh.” Người đọc yêu mến văn phong của Nguyễn Ngọc Tư ở những truyện ngắn, tản văn đã xuất bản thì ở tiểu thuyết này vẫn vậy: Gãy gọn, nhẹ nhàng, khoan thai nhưng không kém phần sắc sảo. Điểm hấp dẫn của “Sông” có lẽ là cái duyên riêng của Nguyễn Ngọc Tư, dù cố thay đổi vẫn không mất đi.
        - (4) Chúng tôi nghĩ rằng Hàm Châu nhận xét các nhân vật hơi lạ thường, kỳ dị, không phổ quát trong xã hội; một tài năng như Nguyễn Ngọc Tư nên viết tươi sáng hơn là chưa thỏa đáng. Các nhân vật trong tác phẩm tuy có chút lạ thường nhưng không phải là không phổ quát trong đời sống. Hành trình đi tìm lại con người thật của Ân, khao khát hạnh phúc của Xu, sự nổi loạn của San, vẻ buông xuôi của Tú và niềm riêng của biết bao nhiêu con người trong tác phẩm cũng có thể là của chung cho những thân phận người trong thế giới hôm nay. Những kiếp người “trôi dạt” trên dòng sông Di, những sự “biến mất” trong lòng sông Di. Biết đâu, họ lại là những người từ bên ngoài hiện thực chui vào trang sách ? Có thể nói rằng mỗi thân phận của một nhân vật cũng chính là số phận của con người trong xã hội thời nay. Theo chúng tôi, một nhà văn tài năng thì ngòi bút phải đi sâu khai thác những mặt còn khuất lấp trong đời sống chứ không thể viết bằng “sự mơ mộng, tưởng tượng về một thế giới chưa từng tới, về những con người chưa từng thấy, những con người chưa từng gặp hoàn toàn không vì một trải nghiệm nào”. Do vậy, tài năng của nhà văn không nhất thiết là sự “tươi sáng” trên từng trang văn. Chúng tôi cũng thừa nhận nhìn chung toàn bộ tiểu thuyết lan tỏa hơi văn buồn nhưng đâu đấy vẫn có nét hóm hỉnh của câu chữ và cách lựa chọn vấn đề gần gũi trong đời sống nên không hoàn toàn ảm đạm như lời nhận xét của Hàm Châu. Tác giả từng thổ lộ với độc giả trong buổi ra mắt quyển tiểu thuyết: “Tính thời thượng của giới trẻ hiện nay là thích đi “phượt” vì thế tôi đã tìm cách đưa vào tác phẩm. Ngoài ra vấn đề đồng tính cũng được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, hai yếu tố này chỉ là cái vỏ cho Sông”. Bởi cách viết của tôi hơi bi quan và buồn. Chính vì thế mà tôi đã phải tìm cách “pha loãng” nó bằng những chi tiết “thời thượng” để độc giả được thư giãn”.
       2.3.2.2. Nghệ thuật
        - (6) Về nhận xét của Trần Hữu Dũng, chúng tôi cho rằng tiểu thuyết “Sông”, Nguyễn Ngọc Tư đã mệt nhọc để gán ghép cho tác phẩm cái luồng tư tưởng nào đó. Nếu thật sự là nhà văn tài năng, Nguyễn Ngọc Tư sẽ làm cho người đọc nhẹ nhàng nhận ra ngay điều mình muốn truyền tải trong và sau khi đọc tác phẩm. Cái chất Nam bộ trong văn của Nguyễn Ngọc Tư quả thật rất tuyệt vời, nhưng để gọi là tầm kỹ thuật thì có vẻ đã quá đề cao nhà văn. Nguyễn Ngọc Tư cần có thời gian và sự trải nghiệm nhiều hơn nữa mới có thể cho ra một tác phẩm tuyệt hay như “Cánh đồng bất tận”. Chúng tôi khẳng định như vậy không có nghĩa là phủ nhận tài văn của Nguyễn Ngọc Tư mà nhận ra được có vẻ bước đi chưa vững chắc của nhà văn trong thể loại tiểu thuyết, “Sông” là một ví dụ.
  3. Kết luận
         “Sông Di là dòng sông của những mảnh đời cỏn con”. Dòng sông Di là nơi bấu víu cho những kẻ không còn hi vọng ở chính mình. Đó là thân phận những con người nhỏ bé sống bám lay lắt vào sông, vô tình làm tổn thương sông và phải hứng chịu những trả thù tàn khốc của sông. Nhưng chính sông Di cũng mang trong mình những vết thương. Vết thương của sông Di cũng là vết thương của những kiếp người nhỏ bé sống bám dọc con sông ấy. Nguyễn Ngọc Tư là một thư ký tận tụy, cần mẫn trên từng trang tiểu thuyết về nhiều vấn đề nhức nhối của xã hội như bạo hành gia đình, bình đẳng giới, suy đồi đạo đức…Nguyễn Ngọc Tư viết như người ngoài cuộc, hờ hững, viết nhẹ như không nhưng chính cái tưởng chừng là “vô chiêu” mà có sức nặng không cùng. “Sông” khi vừa ra mắt đã nhận được sự quan tâm nồng nhiệt của người đọc ở sự đồng thuận, cũng không lắm ý kiến trái chiều. Song Nguyễn Ngọc Tư luôn là chính mình và luôn ý thức rất rõ về trách nhiệm của người cầm bút, về nghề văn “một nhà văn thì luôn phải đi tới, bỏ những hào quang lại sau lưng” vì đó là một hành trình dài vô tận…


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét