I.
MỞ
DẦU
Thơ Mới
là một trào lưu thi ca nở rộ từ năm 1932
đến 1945. Khi mới xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam, nó không được đón nhận
và bị công kích ở nhiều phía do những cách tân quá táo bạo, mới mẽ cả về nội
dung lẫn nghệ thuật. Nhưng qua thời gian, thơ Mới đã tự khẳng định vị trí của
mình bằng chính những giá trị nhân văn toát lên từ tác phẩm như đặt con người
lên vị trí trung tâm, lấy con người là chuẩn mực của cái đẹp, khẳng định cái
tôi cá nhân, khẳng định quyền sống và tài năng của con người. Đồng thời nó cũng
ẩn chứa tiếng nói yêu nước thầm kín và thái độ phản kháng trước thực tại đen tối
của xã hội.
II. CON NGƯỜI TRONG THƠ
MỚI
1.Con người là chuẩn mực của cái đẹp trong
thơ Mới
Từ thơ ca truyền
thống đến thơ Mới là một sự đột phá vĩ đại trong quan điểm thẩm mỹ của thơ ca.
Đây chính là sự cách tân trong quan niệm về cái đẹp, về chuẩn mực của cái đẹp.
Thơ ca truyền thống thì chuẩn mực của cái đẹp bao giờ cũng là thiên nhiên với
những vẻ đẹp mang tính tượng trưng, ước lệ. Để nói về vẻ đẹp, sự oai phong ,
chính trực của người nam tử thì “Râu hùm,
hàm én, mày ngài”. Hay nói về người phụ nữ đẹp các thi nhân xưa cũng lấy
thiên nhiên làm chuẩn mực, con người chỉ là đối tượng được so sánh “Nghiêng nước, nghiêng thành”, “chim sa, cá lặn”, “hoa nhường nguyệt thẹn”,
nói về vẻ yểu điệu, chân yếu, tay mềm của người phụ nữ “liễu yếu đào tơ”
Nhưng đến thơ
Mới đã có sự cách tân táo bạo mới mẻ trong việc đưa con người vào vị trí trung tâm – con người là chuẩn mực
của cái đẹp, thiên nhiên mang vẻ đẹp của con người: “Lá liễu dài như một nét mi”. Trong bài “ Vội vàng” Xuân Diệu so
sánh tháng Giêng như cặp môi gần. Đối với ông – “nhà thơ Mới nhất trong các nhà
thơ mới” thì ông cảm nhận tháng giêng là cái trừu tượng, bằng cái ngon cụ thể của
“vị giác” con người có thể nếm được: “
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Một nghệ thuật độc đáo đạt đến trình
độ thẩm mĩ cao – nghệ thuật chuyển đổi cảm giác và đặc biệt cái vị ngon của
tháng giêng này còn được cụ thể hơn, rõ ràng hơn qua việc cảm nhận niềm sung sướng,
ngon, ngọt ngào, hạnh phúc trong “ cái hôn gần”
của người đang yêu. Điều này càng chứng tỏ, tác gỉa đưa con người vào vị
trí trung tâm, lấy những cảm nhận của con người để cảm nhận về thiên nhiên xung
quanh.
Không chỉ vậy, ta còn có thể tìm thấy những biểu hiện
lấy con người là chuẩn mực của thiên nhiên trong những tác phẩm khác như “ Đây
mùa thu tới” Xuân Diệu cũng chuyển đổi những cảm giác của con người cảm nhận
mùa thu tới để thiên nhiên cảm nhận sự thay đổi ấy. Rặng liễu qua cảm nhận của Xuân Diệu đã trở thành
người phụ nữ rũ tóc đứng chịu tang:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”.
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”.
Ở đây thi sĩ đã mang cái buồn chủ quan của mình phủ lên cảnh vật. Trong
quan niệm thẩm mĩ của các nhà thơ lãng mạn, cái đẹp đồng nhất với cái buồn. Và thiên nhiên luôn mang hình dáng của con
người, lấy con người làm chuẩn mực.
“ Những luồng
run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô
gầy, xương mỏng manh”.
Câu thơ có bảy chữ thì sáu chữ gợi cảnh
rét mướt của mùa thu. Người đọc như nghe thấy tiếng gió, như nhìn thấy những luồng
không khí lạnh đang đi tới và dường như ngay cả những luồng không khí lạnh ấy tự
nó cũng có cảm giác run rẩy, không thể đứng vững. Cành cây thì gầy guộc, mảnh
khảnh như vóc dáng của con người “nhánh khô gầy – xương mỏng manh”.
Bằng tâm hồn nhạy cảm, Xuân Diệu đã cảm nhận được
cái se lạnh của cái rét đầu mùa “ Đã nghe rét mướt luồn trong gió” rét mướt chỉ
cảm nhận bằng xúc giác, ta không thể “nghe”. Đối với thơ ông ta không chỉ nghe, nhìn, cảm nhận mà mọi giác quan đều được huy động. Xuân Diệu đã huy động ở mức độ cao nhất sự thính
nhạy của các giác quan để có thể nắm bắt được sự chuyển biến tinh vi của thiên
nhiên trong khoảnh khắc giao mùa. Thiên nhiên mùa thu, qua cảm nhận tinh tế của
Xuân Diệu, đã trở thành một thế giới nghệ thuật riêng biệt mang một vẻ đẹp mới
lạ, vẻ đẹp của con người chỉ có ở Xuân Diệu trong Thơ mới.
2. Cái tôi cá nhân
trong thơ mới.
2.1 Khẳng định cái tôi bản lĩnh đầy cảm xúc,
khát vọng tự do, giải phóng cá nhân.
Thơ mới đánh dấu một bước chuyển mình
trong thơ ca Việt Nam. Đó là cá nhân tự khẳng định, tự biểu hiện ra
niềm vui, mơ ước, khát vọng. Cái tôi của các nhà thơ ở giai đoạn trước đó
chưa được thể hiện rõ nét như giai đoạn này. Nếu có thì nó vẫn còn ẩn sau cái
ta quá to lớn. Nhưng đến thời điểm này thì con người cá nhân hiện lên thật sắc
nét, cái tôi không còn bị cái ta cũ kỹ bóp nghẹt quyền sống, quyền khát vọng tự
do cá nhân, quyền được mạnh dạn giãi bày cảm xúc thực sự của mình.Vì vậy giai
đoạn này đã hình thành và nở rộ những phong cách nghệ thuật độc đáo cả trong
thơ và văn xuôi. Nhận xét về điều này trong lĩnh vực thơ, Hoài Thanh đã nhận định:
“Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt nam
chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ ta thấy
xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng
Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy
Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha rạo rực băn
khoăn như Xuân Diệu”.
Nhà
thơ được nói lên tâm sự, suy nghĩ, cảm xúc bằng cái tôi riêng biệt mà không bị
gò ép bởi cái ta. Họ đại diện chính họ khi gảy lên khúc tơ lòng:
“Gió mưa
là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
(Tương tư – Nguyễn Bính)
Những câu thơ này không thể có được nếu ở
vào thời gian trước. Và khi cái tôi đã được khẳng định với vị trí quan trọng
trong văn học thì nó đã chuyển hóa cao hơn rất nhiều. Có lúc Xuân Diệu đã từng
đẩy cái tôi ấy lên đến tuyệt đỉnh – cái tôi quá kiêu hãnh:
“Ta là một là riêng là thứ nhất
Không có chi
bè bạn nổi cùng ta”.
(Hy
Mã Lạp Sơn)
Bên cạnh đó, thơ Mới cũng thể hiện khát vọng
tự do, sự giải phóng cái tôi cá nhân.
Các nhà thơ trong phong trào thơ mới là những người trí thức khao khát tự do cá
nhân. Sống trong cảnh đời tù túng họ muốn
được giải phóng, giải thoát. Nhà thơ Huy Thông ước trở thành một cánh chim bay
trên bầu trời cao rộng:
“Tôi muốn làm con chim để cùng gió
Bay lên cao mơn trớn sợi mây hồng
Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng
Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng.”
“Tôi muốn làm con chim để cùng gió
Bay lên cao mơn trớn sợi mây hồng
Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng
Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng.”
Thơ mới là thơ ca tìm đến sự giải phóng
cá nhân. Trong nhiều thế kỉ, thơ ca ít nói tới cái tôi cá thể. Các nhà thơ bị
ràng buộc trong những quy tắc chung ít dám khẳng định bản sắc của mình mà bản
chất thơ ca là sự bộc lộ cảm xúc riêng tư trước cuộc đời. Có thể nói phong trào
thơ mới đã góp phần giải phóng cái tôi, đây là một hiện tượng mang ý nghĩa xã hội
rộng rãi.
2.2 Nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người
trong Thơ Mới.
Buồn và cô đơn là một đặc điểm của văn học
lãng mạn. Nỗi buồn và cô đơn ấy xuất phát do
con người mang nhiều lí tưởng và ước mơ đẹp về cuộc đời nhưng khi bắt gặp thực
tại đen tối, cá nhân đã không có điều kiện để tự do phát triển nên cái tôi bỗng
thấy hụt hẫng và rơi vào bi kịch. Bất lực và bế tắc trước cuộc sống, họ chỉ còn
biết đào sâu vào cái tôi cá nhân và đắm mình trong những lối thoát mà họ nghĩ
có thể giúp họ trốn tránh thực tại. Và mỗi người thoát ly một cách: “Ta thoát
lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu du trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng
cùng Hàn Măc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã
khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ.Ta ngơ ngẩn
buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận . . .”. Nhưng càng tìm kiếm càng lạc lối, càng
đi sâu vào cái “tôi” lại càng thấy lạnh
Nỗi buồn, nỗi cô đơn ấy cũng được
biểu hiện với nhiều cung bậc khác nhau. Điều này ta thấy rõ trong các sáng tác
của Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ . . . Có khi đó là nỗi buồn vô cớ:
“Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn”
(Chiều – Xuân Diệu)
hay cái buồn bơ vơ, lạc lõng giữa
dòng đời của Huy Cận trong “Tràng giang”:
"Sóng
gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về
nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành
khô lạc mấy dòng"
Cũng có khi đó là nỗi buồn của sự bế
tắc khi chưa định hướng được đời mình:
“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay
để nước trôi
”
(Tố Hữu)
Cho
đến nỗi buồn thất thế, tiếc nuối, một nỗi buồn bất lực vì không thể làm gì khi
đất nước đang
bị đô hộ:
"Gậm một khối căm hờn trong củi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua."
(Thế Lữ - “ Nhớ rừng”)
"Gậm một khối căm hờn trong củi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua."
(Thế Lữ - “ Nhớ rừng”)
Ta còn thấy một nỗi buồn khá lạ,
buồn đến tang tóc, lệ ngàn hàng
“ Rặng liễu đìu
hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
(Xuân Diệu – “Đây mùa thu tới”)
Cảnh vật mùa thu được nhìn bằng đôi mắt đầy tâm trạng của thi nhân. Đó là tâm trạng " u uất hận chia ly" không chỉ của riêng Xuân Diệu mà của cả một thế hệ thanh niên tri thức thời bấy giờ.
Đây là tâm trạng của các nhà thơ mới một tâm trạng chứa chất nỗi buồn vì mất nước, một nỗi buồn đến uất hận vì cảnh nước nhà trước mắt mà đành phải bất lực. Một nỗi buồn đang phân vân lựa chọn cho mình con đường cách mạng...
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
(Xuân Diệu – “Đây mùa thu tới”)
Cảnh vật mùa thu được nhìn bằng đôi mắt đầy tâm trạng của thi nhân. Đó là tâm trạng " u uất hận chia ly" không chỉ của riêng Xuân Diệu mà của cả một thế hệ thanh niên tri thức thời bấy giờ.
Đây là tâm trạng của các nhà thơ mới một tâm trạng chứa chất nỗi buồn vì mất nước, một nỗi buồn đến uất hận vì cảnh nước nhà trước mắt mà đành phải bất lực. Một nỗi buồn đang phân vân lựa chọn cho mình con đường cách mạng...
2.3 Khát vọng tình yêu,
đề cao, cổ vũ tình yêu tự do.
Bên cạnh việc khẳng định cái tôi, khát vọng
tự do, giải phóng cá nhân. Thơ Mới còn thể hiện khát vọng yêu đương là vấn đề
luôn được các nhà thơ đề cập trong các sáng tác của mình. Điều này ta thấy rất
rõ trong thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử...
Nhà thơ như lạc giữa thế giới yêu đương, tình yêu đối với ông là
một nhu cầu không thể thiếu và trái tim tâm niệm những điều thầm kín của một
tình yêu lý tưởng ban đầu. Con người chỉ có thể tồn tại có ý nghĩa trong quan
hệ gắn bó với mọi người. Tình bạn, tình yêu, tình đời, tình người:
“Làm sao sống được mà không yêu,
Không nhớ, không thương, một kẻ nào?”
(Bài thơ tuổi nhỏ)
Vẫn chưa đủ, Xuân Diệu muốn tất cả mọi đối
tượng trong cuộc đời phải bộc lộ đầy đủ sự đam mê qua lời nói, ánh mắt, miệng
cười, tay viết,… Tình yêu không trầm sâu mà phải nổi sóng, cơn sóng yêu thương
sẽ tràn bến bờ và dâng lên những chốn vô biên, những miền tuyệt đích:
“Yêu
tha thiết, thế vẫn còn chưa đủ,
Phải nói yêu trăm bận đến ngàn lần;
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân,
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái…”
(Phải nói)
hay “Anh
thèm muốn vô biên và tuyệt đích
Em biết không?anh tìm kiếm em
hoài”
Thêm vào đó tình yêu đòi hỏi phải hòa hợp
tuyệt đối, phải hòa làm một vì đấy mới là độ cao nhất của yêu thương. Hòa hợp
giữa tâm hồn và thể xác:
“ Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc
ngắn dài”
(Xa cách)
Không chỉ bấy nhiêu, Thơ Mới càng tiến
xa hơn với quan niệm cổ vũ, đề cao tự do trong tình yêu đôi lứa. Thơ tình xuất
hiện với mật độ dày đặc, phong phú đủ mọi cung bậc. Dường như tâm hồn con người
trở nên mềm mại hơn, lãng mạn hơn khi được thẳng thắn bộc lộ tình cảm chân thật
trong lòng mình. Bày tỏ tình yêu trở thành tâm điểm trong Thơ Mới và đó là thứ
“công cụ tối tân” để con người có thể giao cảm, đồng điệu với nhau. Thật khó mà
liệt kê hết một lúc các dạng tình yêu mà các nhà thơ thể hiện. Đó là tình vu vơ
trong “Vì sao” của Xuân Diệu:
“Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền
Không
thể vô tình qua trước cửa
Biết
rằng gặp gỡ đã vô duyên? ”
cho đến tình “Tương tư”
của Nguyễn Bính:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một
người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa
là bệnh của trời
Tương tư
là bệnh của tôi yêu nàng”
hay là tình đau xót của
Hàn Mặc Tử:
“Nghệ hỡi Nghệ, muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn
một năm xương thôi!
Thân tàn ma dại
đi rồi
Rầu rầu nước mắt
bời rời ruột gan”
(Muôn năm
sầu thảm)
hoặc tình dang dở của Hồ
Dzếnh:
“Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi
còn dang dở”
Và còn rất nhiều mối tình khác như tình
chia phôi trong “Giây phút chạnh lòng ” của Thế Lữ, tình xưa tuyệt vọng của
T.T.KH trong “Hai sắc hoa tigôn” . . . Dù ở bất cứ trạng thái nào thì tình yêu
trong thơ Mới vẫn đẹp và mang sắc thái u hoài, lãng mạn, day dứt khôn nguôi.
Được sống và được yêu là một diễm phúc hiếm có mà các nhà thơ đã sớm ý thức rõ.
Bởi thế, mạnh dạn bày tỏ nó như một nhiệm vụ thiên liêng, nhu cầu tinh thần
luôn thôi thúc mạnh mẽ người nghệ sĩ.
3. Đề cao, khẳng định
tài năng, quyền sống của con người.
Tiếp xúc với thơ Mới một thời người
ta chỉ nhận thấy phần tiêu cực của nó qua những vần thơ u buồn, ủy mị. Nhưng
theo dòng thời gian, với cách nhìn nhận đánh giá mới, ta lại thấy ở đấy những
bài thơ giàu giá trị nhân văn góp phần khẳng định quyền sống và bộc lộ tiếng
nói của cá nhân tự khẳng định tài năng của mình. Tiêu biểu là bài thơ “Lời kĩ nữ”
của Xuân Diệu và “Hầu trời” của Tản Đà.
Lời kĩ nữ là một trong những bài thiết
tha, tuyệt vọng, bài thơ về một cô gái trong cái nghề nghiệp vốn dĩ luôn bị
khinh bỉ nhưng tiếng nói nhân văn toát lên từ bài thơ là sự ý thức về đời sống
độc lập của tinh thần (với thể xác) là một khát vọng sống thiêng liêng, trong sạch,
là sự ý thức về quyền sống và bản thân mình. Cô gái với sự nhạy cảm với vẻ sáng
lạnh của thiên nhiên, nghe thấu nỗi giá băng tràn mọi nẻo buốt xương da mà run
lên niềm cô đơn đến rợn ngợp. Với lời van vỉ tội nghiệp của người kĩ nữ:
“Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa…”
“Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả
Đây rượu nồng…”
“…Và hồn của em đây
Em cung kính đặt dưới chân
hoàng tử”
Bốn
chữ “đây” là bốn động tác mời mọc bằng bốn vật dâng. Dấu chấm trước chữ
“và” ngắt dòng thơ thành hai câu chứng tỏ
người mời rất có ý thức về sự quí giá của vật dâng thứ tư và cuối cùng: hồn. Cẩn
trọng và thành kính biết bao khi tôn vị khách làm hoàng tử và đặt dưới chân người
ấy “hồn của em đây”.Không phải ngẫu nhiên mà trong lời van xin ba lần kĩ nữ nhắc
tới “hồn của mình”. Đó là sự ý thức về đời sống tinh thần, là sự cảm nhận thấm
thía về nỗi cô đơn và ước mong vượt thoát khỏi tình cảnh cô đơn. Đó là sự mâu
thuẩn giằng xé giữa ước ao trong sáng về mặt tinh thần với cái hoen ố của thân
xác, cái tủi cực của đời sống gạo tiền, cơm áo. Người kĩ nữ muốn tự quên mình
vì ý thức quá rõ về sự cô đơn, bởi nhớ đến mình thì chỉ chạm vào nỗi cô đơn
khôn cùng mà thôi: “Chớ để riêng em phải gặp lòng em” cô sợ phút giây chính
mình đối diện với lòng mình mà thấm thía nỗi trớ true, bất hạnh. Cô muốn thoát
mà tự biết không sao thoát nổi.Còn bi kịch nào hơn khi con người phải trốn chạy
bản than mình. Đây là một ý thức tỉnh táo về mình, về người, về sự bất lực trước
hoàn cảnh:
“Người giai
nhân: bến đợi dưới cây già
Tình
du khách: thuyền qua không buộc chặt”.
Đó
cũng là sự ý thức về tài sắc, về cảnh ngộ éo le, về đời sống nội tâm hết sức
nhân văn của tác giả đối với nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Bên cạnh sự khẳng định quyền sống, thơ Mới
còn góp phần bộc lộ tiếng nói cá nhân tự khẳng định tài năng của mình qua bài
thơ “Hầu trời” của Tản Đà. Cái độc đáo của nhà thơ thể hiện trong “Hầu Trời” là
một cái tôi “ngông” rất lạ. Cái ngông ở đây được nói đến là cái “ngông” dựa
trên khả năng của mình. Nhà văn có vẻ đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của
mình. Khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình
giữa cuộc đời
“Văn
dài hơi tốt ran cung mây!
Trời
nghe, Trời cũng lấy làm hay”
Hay: “Trời lại phê cho
văn thật tuyệt!
Văn
trần được thế chắc có ít”
Từ
đầu đến cuối nhà thơ đều tự tin về tài năng của bản thân và một lần nữa Tản Đà
lại khẳng định rất “ngông”, của kẻ vốn
đã “ngông” khi nhận mình là “trích tiên”
bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Nhà thơ khẳng định tài năng và thân phận “khác
thường của mình”.
4. Tiếng nói yêu nước thầm kín trong thơ Mới
Thơ Mới
không chỉ là tiếng nói của cái tôi ham sống, khát khao sống nhưng bế tắc trước
cuộc đời mà nó còn là tiếng nói yêu nước thầm kín cuả tầng lớp tri thức thời bấy
giờ, ẩn chưa thái độ phản kháng, đấu tranh chống lại thực tại xã hội đen tối,
chống lại những thế lực kiềm hãm con người.
Tiếng nói yêu
nước ấy bộc
lộ trước hết qua những bài thơ thể hiện tình yêu với con người, cảnh vật, quê
hương. Hình ảnh quê hương đất nước hiện lên trong các bài thơ đem lại những cảm
nhận rất riêng nhưng lại rung cảm bao thế hệ độc giả. . Một địa danh thôn Vỹ đi
vào nỗi nhớ, gắn kết ân tình với xứ Huế trong Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử.
Không gian của buổi chiều thu cho đôi lứa tìm đến nhau trong Thơ Duyên cũng khiến
ta cảm nhận sắc thái thiên nhiên hoà hợp quấn quít trên cây cỏ, chim muông. Quê
hương còn hiện lên qua nỗi buồn mang tầm vóc vũ trụ, của chàng thi sĩ Huy Cận đứng
trên quê hương mà vẫn cảm thấy “thiếu quê hương”, chuyển tải bao tâm sự nỗi niềm
của người dân mất nước. Tất cả những nỗi niềm ấy kết tinh lại trong “lòng quê dợn
dợn vời con nước – không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi dậy tình yêu giang
sơn Tổ quốc. Quê hương còn đẹp giản dị trong Chiều xuân của Anh Thơ, làng quê
Việt Nam đẹp một cách nao lòng trong cỏ xanh, mưa xuân, đàn bò đủng đỉnh, cô yếm
thắm…. Tất cả những bài thơ ấy viết về con người, cảnh vật, làng quê…đều gặp
nhau ở một điểm: tình cảm yêu nước kín đáo.
Phong trào thơ Mới từng bị xem là tiếng
nói của tình cảm cá nhân ủy mị, tiêu cực. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của
thời đại, của đất nước, chúng ta cần thấy được cái buồn bao trùm trong thơ Mới
cũng là biểu hiện của lòng yêu nước, của thái độ bất mãn với thực tại. Đâu phải
ai cũng may mắn như Tố Hữu bắt gặp ánh sáng lý tưởng cộng sản từ rất sớm, được
lý tưởng ấy soi đường, được dấn thân vào con đường đấu tranh chống lại kẻ thù
nên những nhà thơ Cách mạng như Tố Hữu có chỗ dựa vững chắc ở chính nghĩa Cách
mạng và niềm tin thắng lợi. Các nhà thơ Mới thì không có điểm tựa này nên họ vùng vẫy trong cái tôi lạc loài, bơ vơ.
Huy Cận đã đi đến tận cùng nỗi cô đơn ấy khi ông đặt mình trong tương quan với
vũ trụ to lớn:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô
liêu”
Tiếng nói
yêu nước không chỉ thể hiện qua những câu thơ ca ngợi quê hương hay ẩn chứa nỗi
buồn thế hệ trước thực tại đen tối của đất nước mà đôi khi nó còn được gửi gắm
qua những hình ảnh ẩn dụ ví von như hình ảnh “non-nước” trong bài “Thề non nước”
của Tản Đà, hình ảnh con hổ bị giam trong vườn bách thú ở bài “Nhớ rừng” của Thế
Lữ, hay hình ảnh người chinh phu ra đi vì nghĩa lớn trong “Tống biệt hành” của
Thâm Tâm.
Trước hết,
ta nói đến bài thơ “Thề non nước” của Tản Đà. Đây là một bài thơ đa nghĩa. Có nội dung vịnh cảnh
trong tranh. Có nội dung phong tình cố hữu của Tản Đà. Và còn có tấm lòng thiết
tha gắn bó của nhà thơ với Tổ Quốc giang sơn trong cảnh ngộ mất chủ quyền. Trong
bài thơ “Thề non nước”, hai chữ “non” và “nước” xuất hiện ở tần số rất cao: 27
lần, lúc thì nước nhớ non, lúc thì non nhắn nước, lúc thì non non nước nước… Một
giọng thơ thiết tha, có không ít câu thơ để lại nhiều ám ảnh:
“Nước đi đi mãi,
không về cùng non,”
“Nước đi chưa lại,
non còn đứng trông,
Non cao những
ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong
tháng ngày”…
“Non còn nhớ nước, nươc mà
quên non…”
Lời thề non nước của Tản Đà đã đồng điệu cùng với tiếng
lòng của những nhà thơ yêu nước đầu TKXX:
“Có
phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”.
(“Cuốc kêu cảm hứng” - Nguyễn Khuyến)
”Vì thương nước cạn, nặng
nề em dám kêu ai
(...) Cái bước đêm khuya
thân gái ngại ngùng
Nước non gánh nặng, cái đức
ông chồng hay hỡi có hay!”
(“Gánh nước đêm” - Trần Tuấn Khải)
Đến
”Nhớ rừng” của Thế Lữ, ta thấy được một tâm sự u uất, chán nản và khát vọng tự
do cháy bỏng tha thiết qua lời mượn của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là
tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước. Hơn thế
nữa, ta còn thấy ở bài thơ bộc lộ sự phản kháng gay gắt trước thực tại tầm thường
giả dối, tù túng giam hãm ước mơ của con người.
”Gậm
một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày
tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn,
ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh
rừng thẳm”
Và tất cả những tình cảm
yêu nước, những khát khao được thoát khỏi cuộc sống tầm thường, phá bỏ vòng vây
kiềm hãm của thực tại xã hội đen tối ấy được kết tinh trong hình ảnh người
chinh phu quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn:
”Li khách! Li khách con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về
bàn tay không
Thì không bao giờ
nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng
đừng mong”
III. KẾT LUẬN
Thơ Mới là một sự kiện lớn nhất đầu thế kỉ XX,
một sự kiện quan trọng trong tiến trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Nó góp phần rất lớn trong việc cách tân hiện đại hóa thơ ca dân tộc. Nó thể hiện
những nội dung mang tính nhân văn cao cả và tính dân tộc sâu sắc và những tình
cảm đẹp đối với quê hương, đất nước, làng quê trong mỗi con người chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét