1. MỞ ĐẦU
Thời
gian cứ mãi trôi, bánh xe lịch sử cứ quay đều. Văn học luôn trường tồn cùng
những đổi thay của cuộc sống. Hơn bao giờ hết, vấn đề con người được đặt ra
trong văn học ở mọi thời đại bởi “Văn học
là nhân học” (M.Gorki). Văn học phản ánh cuộc sống. Hiện thực cuộc sống
phản xạ qua lăng kính chủ quan của tác giả rồi khúc xạ qua tác phẩm. Vì thế
trong tác phẩm mang đậm hơi thở cuộc sống con người. Chính vì “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”
(Biêlinxki) nên những trang văn, trang thơ là những trang đời.
Theo
nghiên cứu của các từ điển và các nhà tư tưởng, điểm gặp nhau về chủ nghĩa nhân văn chính là
hướng đến việc giải phóng con người, xem con người và sự phát triển của con
người là mục đích cao nhất.
Xuất
hiện trong những năm khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và cả
những ngày đất nước hòa bình độc lập, thơ Nguyễn Duy mộc mạc, chân phương nhưng
vẫn ánh lên vẻ đẹp lấp lánh những giá trị CON NGƯỜI. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
từng nhìn nhận: “Hình hài Nguyễn Duy
giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất
hoang đó”. Tuyển tập thơ Nguyễn Duy đã thể hiện những gì tinh túy nhất của
thứ cây quý ấy mà vấn đề con người là giá trị không thể thiếu như đã nói ở
trên.
2. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
TRONG THƠ NGUYỄN DUY
2.1 Con người trong cuộc sống đời thường
Con
người, nhân vật quan trọng nhất, đa dạng nhất và luôn được giữ vị trí trung tâm
trong các tác phẩm văn học. Con người trong thơ Nguyễn Duy cũng vậy. Đó là
những con người cụ thể được phản ánh chân thật như: người lính, người mẹ, người
bà, người vợ và chính mình...
Đọc bài thơ Bàn
chân người lính của Nguyễn Duy, ta như tận mắt chứng kiến tinh thần yêu nước và nỗi khó khăn vất vả
trong những đêm dài hành quân của những anh bộ đội cụ Hồ thời chống Mỹ cứu
nước:
“Già trẻ hỏi nhau lòng rưng rưng
- Các anh đi nửa đêm? Hay gà gáy?
Chỉ thấy dấu chân như lời chào ở
lại
Bàn chân chuyển lay đổ bốt sập đồn
Đi êm hơn giấc ngủ những người
thương.”
Hiện
thực đời sống chiến đấu của dân tộc là nguồn cảm hứng mãnh liệt cho những trang
thơ Nguyễn Duy. Hình ảnh người lính được khắc họa trong nỗi đau và nước mắt,
thể hiện qua bài Cát trắng:
“Ấp chiến lược như nấm mồ câm lặng
Cát tím bầm- lở loét vết giầy đinh
Mồ hôi chảy thấm vào trong cát
Nước mắt chảy thấm vào trong cát
Máu người chảy thấm vào trong cát.”
“Mồ hôi”, “nước mắt”, “máu người” đã “thấm” vào trong cát. Đó là sự hi sinh
cao cả của người lính trong thời chống
Mỹ. Cái khoảnh khắc của cuộc chiến đấu, cái tôi cá nhân
của “người lính” được thố lộ những cái riêng tư, những nỗi buồn, những đau khổ
trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Viết Đò Lèn, nhà thơ như sống lại những kí ức về tuổi thơ và hình ảnh người
bà đáng kính. Đó là sự trỗi dậy của ý
thức, tự nhìn lại bản thân, nhớ về những ngày thơ ấu say mê với trò chơi con
trẻ:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ trên vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”
Bốn câu thơ đã gợi ra nhiều kỉ niệm thời
thơ ấu đầy tinh nghịch. Tính chân thật, riêng biệt của kí ức tuổi thơ được thể
hiện qua những cái tên rất cụ thể cống
Na, Bình Lâm, chùa Trần. Đó là cuộc sống ở làng quê bình yên và có cái
riêng tư. Cậu bé Duy đã thể hiện cái tôi cá nhân một cách chân thật và độc đáo.
Có thể nói người mẹ là nguồn cảm hứng
chính để Nguyễn Duy viết nên nhiều bài thơ xúc động, nổi bật nhất là Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa:
“Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn
mùa”
Hình ảnh người mẹ hiện lên thật giản dị,
còn nhiều thiếu thốn, vất vả nhưng người mẹ ấy là tất cả đối với con, là thần
tượng vĩ đại nhất trong lòng con.
Viết về vợ là những bài thơ có vị trí
khiêm nhường, tĩnh lặng, giản dị nhưng những câu thơ lại ngời lên xúc cảm sâu
xa tận đáy lòng nhà thơ dành cho vợ:
“Khi
trong túi có mấy đồng ngọ nguậy
Ta chạy rông như gì nhỉ - quên đời
Lúc xơ xác bờm xơm từng sợi tóc
Đói
lả mò về
Cơm
đâu...vợ ơi?”
(Vợ ơi)
Cuộc đời đang “ngọ nguậy, xốc xếch” nhưng vẫn còn chốn tìm về mà gọi “cơm đâu...vợ ơi”. Thật xúc động thay
với tình nghĩa vợ chồng !
Qua những điều nói trên, chúng ta có
thể thấy thơ Nguyễn Duy đều tập trung vào hình ảnh con người. Họ được đặt vào
vị trí trung tâm với một địa vị cụ thể và luôn bộc lộ được cái tôi cá nhân với những cảm xúc,
tâm tư và nguyện ước.
2.2 Con người với khát vọng và ước mơ hạnh phúc,
những nỗi niềm riêng tư thầm kín và những lỗi lầm
Đọc thơ Nguyễn Duy, ta thấy toát lên những khát vọng và ước
mơ hạnh phúc của con người về những điều bình dị, giản đơn mà vô cùng ấm áp.
Khát vọng về cuộc sống gia đình bên mẹ, bên bà luôn là tâm trạng chính của
“người con” trong thơ Nguyễn Duy. Đó là
kỉ niệm tuổi thơ ngọt ngào bên người bà thân yêu trong Đò Lèn:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình
Lâm”
Ta còn xúc
động với sự bảo bọc, nâng niu, chở che
của người mẹ dành cho con trong Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa:
“Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm
đêm mưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm bún lưỡi
lừa cá xương”
Đó là niềm
hạnh phúc tuyệt vời của tuổi thơ khi có mẹ, khi được sống trong vòng tay mẹ -
người thầy đầu đời của con.
Khao khát trở về với cuộc sống bình dị, giao hòa với mọi
người với quê hương là ước mơ của nhân vật trữ tình trong bài thơ Xó bếp của Nguyễn Duy:
“Nơi ấy
vùng ta còn đun rạ đun rơm
cơm
nếp cứ thơm canh cua cứ ngọt
con cá
kho dưa quả cà kho tép
việc vặt giúp bà ta từng quen tay”
Riêng về
người lính, chúng ta không chỉ nhận ra niềm khát vọng hòa bình trong lí tưởng
chiến đấu mà còn bắt gặp niềm vui, khát
vọng tình yêu tuổi trẻ trong bài Nhận
được thư ở Đông Hà:
“Hành quân ngày lại thâu đêm
Thình
lình nhận được thư em, chập chiều
Cám ơn đồng chí
quân bưu
Gửi tình yêu vượt
suối đèo theo anh.”
Khám
phá thơ Nguyễn Duy, chúng ta như từng bước bước vào thế giới nội tâm, đến với
những nỗi niềm riêng tư thầm kín của con người trong thơ. Giây phút “giật mình” của nhân vật trữ tình khi
đối diện với “người bạn tri kỉ” thuở nào
trong Ánh trăng:
“Trăng cứ
tròn vành vạnh
kể chi
người vô tình
ánh
trăng im phăng phắc
đủ cho
ta giật mình.”
Đây chính
là giây phút mà con người “tự vấn” lương tâm, nhận ra sự thay đổi của cuộc sống
và lòng người giữa quá khứ và hiện tại.
Con
người trong thơ của Nguyễn Duy cũng là những con người bình thường nên không
tránh được những lỗi lầm trong cuộc cuộc sống. Và chính chiến tranh, chính hoàn
cảnh sống đã đưa đẩy con người bước vào những lỗi lầm ấy. Nhẹ nhàng mà sâu
lắng, đó chính là tâm trạng hối tiếc muộn màng của người cháu trong Đò Lèn:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa
vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết
thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là
một nấm cỏ thôi”
Có lẽ, con
người không có nỗi xót xa nào hơn, trớ trêu nào hơn trong bài Trở lại khúc hát ru. Người chồng lên
đường chiến đấu, ngày trở về “Vợ anh vừa
đẻ một thằng con”. Người vợ nhận lỗi cùng chồng trong nước mắt:
“Anh chưa nói lời nào
vợ anh đã đầm
đìa nước mắt
nước mắt
cuốn trôi ngày vui gặp mặt
-
Em lỗi lầm
anh hãy xa em đi…
em không còn xứng đáng
với anh nữa”
Lỗi lầm ấy
không ai mong muốn. Chính cuộc đời đã tạo nên lỗi lầm ấy và cũng bởi rằng người vợ ấy là một “con người”.
Như
vậy, chúng ta có thể thấy rằng, nhà thơ Nguyễn Duy luôn chú ý, quan tâm đến
những khát vọng và ước mơ hạnh phúc, cũng như đi sâu vào ngõ ngách tâm hồn tình
cảm và chỉ ra những lỗi lầm của con người. Chính vì vậy, con người trong thơ
ông luôn mang đậm tính người.
2.3 Con người đấu tranh bảo vệ quyền sống, bảo vệ môi trường tự do
Một tác phẩm văn
học mang đậm tính nhân văn là phải thể hiện được sự tôn trọng quyền của con
người, điều gì làm mất đi quyền con người thì phải đấu tranh. Đến với những trang thơ của Nguyễn
Duy, chúng ta cũng sẽ nhận thấy được điều đó.
Tìm đến những con người trong thơ thời chống Mỹ của Nguyễn Duy, ta sẽ thấy
được tinh thần phản đối chiến tranh, bảo vệ Tổ quốc
của những người con đất Việt. Trong Đò
Lèn, tình cảm cháu dành cho bà mãi vẹn nguyên trong kí ức và cả trái tim.
Nhưng rồi đột ngột, tuổi thơ chợt bay biến theo tiếng bom đạn và sức càn quét của giặc Mỹ:
“Bom Mỹ
dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả
chùa chiền.”
Chính chiến
tranh đã gây nên nỗi tang thương cho đất nước và cũng chính chiến tranh đã làm cho biết bao gia đình phải li
tán. Người cháu đã lên đường chiến đấu, chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương,
bảo vệ người bà yêu dấu. Nhưng hành trình trở về lại là một nỗi buồn man mác:
“Tôi đi
lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”.
Trong bài Từ trái bom đến trái dừa, nhà thơ đã vạch rõ tội ác của quân
giặc:
“Thằng Mỹ dắt
bom tới Hàm Rồng
Bom rơi xuống
màu xanh sông Mã”.
Và hình ảnh người bảo vệ sự thanh bình cho đất nước xuất
hiện:
“Chị dân
quân
Và lưỡi dao
Im lặng.
Thằng Mỹ dưới chân – có phải con người?”.
Nguyễn Duy đã sử dụng một chút hài hước như
muốn giảm bớt sự đau thương nhưng cũng đủ làm cho quân thù khiếp sợ:
“Chị dân quân
cắn môi
Lưỡi dao loáng sắc trời
Bổ chát!
Không,
Không bổ cái đầu bờm cúi rạp
Mà bổ trái dừa cho một cơn đói khát”.
Con người luôn
đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước và khi kết thúc chiến tranh mưa
bom bão đạn, lại phải tiếp tục cuộc “chiến” với chính mình: Chống trì trệ và
đói nghèo. Bài thơ Đánh thức tiềm lực toát lên tâm trạng xót xa, trăn trở của một
người yêu nước tha thiết, mãnh liệt với điệp khúc: “Tiềm lực còn ngủ yên” và động viên những người con của dân tộc
phải:
“Năng động lên nào! ...
Cần lưu ý … cần lưu ý:
lời nói thật có thể bị buộc tội
lời nịnh hót dối lừa có thể được tuyên dương…
đạo đức giả có thể thành dịch tả
lòng tốt lơ ngơ có thể bị lạc đường”
Thi phẩm Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ như một lời cảnh
báo, nói với cả nhân loại đang tồn tại trên hành tinh xanh: Hãy bảo vệ môi sinh
cho cái nôi sự sống:
“Quả đất nóng dần lên
tầng ôzôn có vấn đề gì đó
Sọ dừa gặp vấn đề trì trệ
Tri thức nhồi vào, tri thức cứ
phòi ra
Mắt vấn đề toét, tai vấn đề ù
bất ổn vấn đề giấc ngủ…”
Nhìn chung, con người trong thơ Nguyễn Duy không tĩnh
tại, đứng yên mà luôn đấu tranh: Đấu tranh chống lại giặc ngoại xâm bảo vệ đất
nước; đấu tranh chống lạc hậu trì trệ trong
xã hội và bảo vệ môi sinh để con người có được môi trường tốt đẹp phát triển
năng lực bản thân góp phần xây dựng nước nhà.
2.4 Con người phản ánh cái xấu, vạch trần
bản chất của những thế lực bất nhân
trong xã hội
Với Nguyễn Duy, cuộc đời con người xung
quanh đều đáng thương, họ vẫn còn đau khổ, bi đát, bế tắc bởi cái xấu, cái bất
nhân ngự trị. Ông đã nhận vào mình những va động đầy ám ảnh của đời và
chắt lọc thành những vần thơ vạch trần, tố cáo, phê phán….
Bài thơ
Ánh trăng là lời phê phán nghiêm khắc
đối với những kẻ bạc bẽo, giàu sang quên bạn cơ hàn:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Con
người sinh ra là kiệt tác của tạo hóa, vậy mà “người giúp sinh” cho những kiệt
tác ấy lại bị rẻ rúng, xem thường. Mượn ý nghĩ của người nữ hộ sinh, nhà thơ
như thốt lên những phản ứng gay gắt:
“Nhớ lời xưa của đôi đứa
bạn bầy:
-Ồi, có ra gì cái nghề đỡ đẻ!
Em nghĩ những ai nói lời như thế
Cũng không phải từ dưới đất trồi lên.”
Trong
thời kỳ đất nước đổi mới, ở nơi xứ người (Liên Xô cũ) từ nơi xa xôi tuyết
trắng, nhà thơ vẫn thấy được những tệ nạn xã hội đáng báo động ở quê nhà:
“…Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
Ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
Đạo chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
Buôn lậu, buôn quan, buôn thánh thần – buôn tuốt
Quyền lực bày ra, đấu giá trước ông đường”
(Nhìn từ xa
…Tổ quốc)
Cái
xấu, cái ác, cái lạc hậu, trì trệ vẫn luôn tồn tại xung quanh cái tốt, kiềm hãm
sự phát triển của con người và xã hội. Điều quan trọng là Nguyễn Duy đã dám
nhìn thẳng sự thật và phản ánh nó trên những trang thơ. Đây chính là điểm sáng
làm nên sự thành công của Nguyễn Duy.
2.5 Con người dưới góc nhìn thẩm mỹ
Đọc thơ Nguyễn Duy, chúng ta phát hiện
được cái hay cái đẹp qua cách sử dụng thể thơ lục bát. Nguyễn Duy không hề biến
dạng thể lục bát mà vẫn giữ được sự êm ái đều đặn với thanh trầm đặc trưng của
tiếng nói Việt Nam, chứa chan tình cảm con người:
“Mặt trời là trái tim anh
Mặt trăng vành vạnh là tình
của em”
(Bầu trời vuông)
Một vài trường hợp Nguyễn Duy sử dụng
cả câu ca dao, trường hợp khác nhà thơ sử dụng chất liệu ca dao để trộn vào
những bài lục bát của mình nhưng không phải để trang trí, làm duyên. Mỗi bài
thơ lục bát có lẫn ca dao của Nguyễn Duy đều gợi ra những góc nhìn mới mẻ,
những suy nghĩ sâu sắc về lẽ đời, con người:
“Cái
cò…sung chát…đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.”
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Đến với
Hai lần chết của một người lính
cộng hòa chúng ta phần nào cảm nhận được sự hi sinh của người lính trong
chiến tranh. Giọng thơ nặng trĩu nỗi buồn xót xa:
“Dòng máu anh đất hút khô rồi
Anh teo quắt,
đất vẫn khô không khốc
Bà con thương
tình chôn anh xuống đất
Chưa được nửa
ngày, bom Mỹ lại đào lên.”
Ngoài
ra, lối dùng chữ lắt léo và cá tính của Nguyễn Duy cũng mang đậm tính nhân văn
làm rung động trong thẳm sâu tâm hồn người. Chất hài hước trong thơ Nguyễn Duy
biểu hiện qua những tiết điệu uyển chuyển, hình ảnh lạ nhưng ấm áp tình người:
“Móc họng
mửa ra cầu vồng bảy sắc
Vợ dìu
ta tầng bậc thang mòn”
(Vợ
ơi)
Thơ
Nguyễn Duy đôi khi ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm. Tiếp
cận thơ Nguyễn Duy, chúng ta thấy dường như nhà thơ “cầm một cây tre quậy vào cái ao nhà mình…” (Lê Thiếu Nhơn) để tạo nên một hồn thơ
riêng thấm đẫm giá trị nhân văn làm nổi bật giá trị con người trong những tình
điệu thẩm mỹ lấp lánh trang đời.
3. KẾT
LUẬN
Thơ
Nguyễn Duy có khi mộc mạc chân phương dễ hiểu vì những gì nó hướng tới cũng
không quá trừu tượng, không vượt ra ngoài đời sống tai nghe mắt thấy tự tình
của con người. Có khi đẹp một vẻ đẹp trau chuốt cổ điển nhờ sự giản dị mà tinh
hoa của câu chữ, hình ảnh diễm lệ nhưng không gò bó rườm rà, cảm xúc nồng nàn mà
tiết chế. Cũng có khi bâng quơ nhưng bất chợt lãng mạn khó ai bì…
Vấn đề
CON NGƯỜI hiện lên trong thơ Nguyễn Duy
luôn ở vị trí trung tâm. Đó là hình ảnh người bà, người mẹ, người vợ, người
lính, chính mình…Là
những ước mơ khát vọng hạnh phúc của những ký ức tuổi thơ, những nỗi niềm trăn
trở. Nơi đó quyền sống con người sẽ được bảo vệ bằng sự đấu tranh vạch trần cái
xấu, cái ác của chiến tranh, của những tiêu cực đời thường. Bao trùm tất cả là
giá trị thẩm mỹ trong thơ Nguyễn Duy, nơi đó có cái hay, cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài…của con người.
Tóm
lại, đọc thơ Nguyễn Duy, ta thấy ông “hay cảm xúc, suy nghĩ trước những
chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác có thể chỉ là thoảng
qua thì ở nhà thơ nó sâu lắng và dường như đọng lại…” (Hoài Thanh). Con
người, tình người luôn thấm đẫm trong những trang thơ của ông. Đó chính là lời
giải đáp làm nên giá trị nhân văn và thẩm mỹ của thơ Nguyễn Duy./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét